Thứ Tư, 16 tháng 1, 2013

PHAN CHU TRINH -Lãnh tụ phong trào Dân chủ Dân quyền Việt Nam

Bổ sung tiểu sử Các nhà khoa bảng VN

    PHAN CHU TRINH -Lãnh tụ phong trào Dân chủ Dân quyền Việt Nam
PHAN CHU TRINH
                                                                                  Ảnh: Viện BTCM VN

2801.PHAN CHU TRINH  潘周 楨
(1872-1926)
Người xã Tây Lộc huyện Hà Đông tỉnh Quảng Nam – Nay thuộc xã Tam Lộc thị xã Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam.
Sinh năm Nhâm thân. Cử nhân khoa Canh Tí (1900)
30 tuổi đỗ Phó bảng khoa Tân sửu niên hiệu Thành Thái 13 (1901).
Phan Chu Trinh xuất thân trong một gia đình nông dân.Cha là Phan Văn Binh đi lính làm đến chức Quản cơ. Mẹ là Lê Thị Chung. Sau khi thi đỗ, ông về nhà nghỉ 3 tháng rồi ra Huế, tiếp xúc với thân hữu và nhân sĩ yêu nước.Để dễ bề hoạt động chính trị, đầu 1903 Phan Chu Trinh nhận chức Thừa biện ở bộ Lễ  Nhưng quá chán nản với môi trường quan lại, chỉ một năm sau ông liền xin từ chức để rộng đường cho công việc tuyên trưyền vận động cứu nước. 
Năm 1904  Phan Chu Trinh cùng hai bạn thân là Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng mới đậu Tiến sĩ (không ra làm quan) thực hiện một  chuyến đi vào nam.Đến Bình Định, gặp quan tỉnh đang mở cuộc thi học trò,. ba ông nộp đơn vào dự
thi. Phan Chu Trinh làm bài thơ Chí thành thông thánh, hai ông Trần, Huỳnh làm bài phú Lương ngọc danh sơn, khi nộp quyển chỉ ghi một tên chung là Đào Mộng Giác. Theo Ngô Đức Kế; “Hai bài thơ phú ấy không giống các thơ phú bình thường mà chỉ nói về việc nước để đánh thức đám sĩ phu đang mê ngủ trong đám quan trường. Quan tỉnh thấy mà thất kinh, không dam điểm duyệt, phải dịch ra quốc ngữ để trình cho Công sứ. Sau rồi hai bài ấy đọc khắp nước, có ảnh hưởng lớn trong giới sĩ phu”. Đến Cam Ranh, gặp lúc tàu chiến của Nga đang đậu ở đấy, các ông giả làm khách buôn, thuê thuyền ra xem tàu. Ba ông còn đi tiếp vào Phan Thiết thăm hai con trai của nhà nho yêu nước Nguyễn Thông là Nguyễn Trọng Lội và Nguyễn Quý Anh, kết giao với các nhân sĩ Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang v.v…                                                                                       
Năm 1905 Phan Bội Châu sang Nhật Bản, gửi thư về khuyên quốc dân giúp kinh phí và gửi con em sang Nhật để học con đường văn minh của Nhật Bản.  Tây Hồ từ trước đến Huế đã quen biết Sào Nam, hồi này đã dứt khoát lựa chọn con đường dân chủ dân quyền. Khi biết Sào Nam có ý định đón hoàng thân Cường Để sang lập làm minh chủ,. Tây Hồ rất muốn bàn bạc với Sào Nam về chủ trương ấy, bèn bí mật đi ngay sang Quảng Châu, may gặp Sào Nam cũng vừa từ Nhật trở về đang ở nhà cựu tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc. Rồi Sào Nam đưa cả Tây Hồ cùng sang Nhật. Tây Hồ cùng Sào Nam đàm đạo phương châm cứu nước trong hơn 10 ngày rồi Sào Nam tiễn Tây Hồ về nước.
Đi Nhật về, Phan Chu Trinh viết Thư gửi Toàn quyền Đông Dương (đề ngày 1-11-1906), nêu hết tình tệ trong nước, nhất là sự hủ lậu mục nát của bọn quan lại Nam triều. Phan Chu Trinh nói rõ mục đích hoạt động của ông là vận động sửa đổi chỉnh trị, thực hiện công khai với cả chính phủ và quốc dân, chứ “không thích tổ chức đảng kín”. Tiếp đó  Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng chia nhau đi đến các nơi trong tỉnh kêu gọi nhân dân học chữ quốc ngữ, bỏ hủ tục mê tín dị đoan, theo lối sống văn minh: cắt tóc, mặc âu phục, lập trường học, mở hiệu buôn v.v…. Thời gian này Phan Chu Trinh cũng hai lần ra Bắc gặp cụ Cử Lương Văn Can, Nguyễn Hữu Cầu, Đào Nguyên Phổ để bàn bạc thòi cuộc và diễn thuyết hô hào duy tân cứu nước ở Đông Kinh Nghĩa thục, người đi nghe rất đông. Trong khi đó phong trào duy tân khởi đầu ở huyện Đại Lộc Quảng Nam (11-3-1908) với khẩu hiệu “chống đi phu, đòi giảm sưu thuế”, lan nhanh khắp hai tỉnh Nam Ngãi, rồi Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà.Phía bác ôhng trào lan ra Huế, Hà Tĩnh, ra đến cảc Nghệ An, Thanh Hoá (đương thời gọi là Vụ dân biến Trung Kỳ).Thực dân Pháp và Nam triều thẳng tay đàn áp: Tiến sĩ Trần Quý Cáp bị tràm quyết ở Khánh Hoà, Nho sinh Nguyễn Hàng Chi bị bắt chém ở Hà Tĩnh.Hàng trăm người bắt bớ tù đày, nhưng thực dân Pháp quy tội cho các nhà trí thức Nho học là lãnh tụ tinh thần của phong trào chóng đối ấy.Báo cáo tổng hợp Vụ dân biến Trung Kỳ 1908, ngày 22-7-1908 của Q.Toàn quyền Đông Dương Bonhoure viết:
“Các nguyên nhân chung không chỉ tồn tại ở nước Nam mà là chung cho các nước Viễn Đông và có những duyên cớ riêng của địa phương đã được nhừng kẻ cầm đầu gây rối khai thác khéo léo để lôi kéo dân chúng. Những tên này đều thuộc tầng lớp ưu tú của xã hội An Nam, quan lại cũ hoặc Nho sĩ. Phần lớn họ có nguồn gốc Trung Kỳ, tức là bộ phận của nước An Nam có truyền thống văn học bền vững và ý thức dân tộc dai dẳng nhất [……] Khi biểu tình chống các quan lại địa phương đang làm việc cho nước Pháp, họ đã được sự dẫn dắt của các Nho sĩ và quan lại cũ mà họ coi là những kẻ cầm đầu đương nhiên”. Liên quan đến hong tgrào chống tghuế ở Trung Kỳ, Ngô Đức Kế là Tiến sĩ Nho học bị bắt đầu tiên ( 7- 1908), nhưng Phan Chu Trinh lsf người đầu tiên bị đày ra Côn Đảo ( Đoàn  Ngô Đức Kế  27 người bị đày ra Côn Lôn (8-1908) đã nhận đựoc thư của Tây Hồ nhờ người vo viên ném vào)  Vì Phan Chu Trinh lên án vua quan, nên Nam triều rất căm ghét, nghị án xử “trảm quyết” (chém ngay). Nhưng Phan Chu Trinh có một duyên may vì trong thời gian ngắn ở Hà Nội ông có quen vói một ngưòi Pháp tiến bộ là E.Babut có chân trong Hội Nhân Quyền Đông Dương. Ông này viết bài đăng báo Người tiền phong Đông Dương tố cáo việc bắt Phan Chu Trinh trái luật ngay khi Phan vừa bị bắt (31-3).Babut cũng gửi cả thư lên Toàn quyền Đông Dương Klobukowski và Bộ trưởng Thuộc địa Pháp Moutet, được dư luận đồng tình.Sau lại có De Brieux VS Hàn Lâm Pháp nhân có dịp qua Đông Dương biết rõ sự việc, hết sức giúp đỡ, cuói cùng Bộ Thuộc địa ký văn thư đồng ý cho Toàn quyên ĐD Klobukowski ân xá cho Phan Chu Trinh. Ngày 27-6-1910 tai văn thư số 1365 của Phủ Toàn quyền , Klobukowski đã thông bsó cho Thống đốc Nam Kỳ trả tự do cho Phan Chu Trinh, đưa về an trí ở Mỹ Tho. Cơ Mật viện Nam triều bắt đắc dĩ phải thông qua quyết định ân xá của Klobukowski (29-6-1910). Những người bạn Pháp nhất là ông Roux tiếp tục đòi hỏi Chính phủ  Pháp phải có “sự đền bù thích đáng” cho ông Phan. Vì vậy, đơn của Phan Chu Trinh xin sang Pháp được chấp nhận, hơn nữa còn được phép đem theo con trai là Phan Chu Dật sang để học tại Pháp. Chi phí chuyến đi và các khoản chi ăn ở tại Paris cho cha con Phan Chu Trinh (và 1 phiên dịch viên) đều được ngân sách của CP Pháp thanh toán. Đó là thắng lợi đầu tiên và hy hữu của nhân quyền và công lý trên đấtViệt Nam. Phan Chu Trinh và con trai Phan Chu Dật đến  Marseille ngày 27-4-1911, rồi đựoc Bọ trưởng Thuộc địa A.Sarraut tiếp. Sau đó được đưa về Paris ở tại ký túc xá Guyau của sinh viên. Ngô Đức Kế viết: “ Lúc ông mới sang Pháp, vẫn có tiếng là một nhà cách mệnh Việt Nam, những người Pháp nào theo chủ nghĩa nhân đạo đều có lòng kính mến mà bênh vục cho ông. Ông hết sức công kích cái chính sách không công bình cjủa Pháp ở Đông Dương và kể hết cái tình trạng của dân mình. Ông viết bản “Thủ lục”(Ghi chép) nói hết cái việc dân sĩ bị nạn thảm hại năm Mậu Thân 1908) đem cho Hội Nhân quyền tuyên bố ra để hoán khởi dư luận nước Pháp. Song những đảng phái nào theo chính sách thuộc địa thì lại  ghét ông, vì ông hay bới móc việc đảng họ….” Đầu chiến tranh thế giới lần thứ I, có người vu cho ông có liên lạc với người Đức nên ông cùng hai ông Phan Văn Trường, Nguyễn Như Chuyên bị  CP Pháp bắt giam  ngục Santé 10 tháng (từ 15-9-1914 -8-1916 Thời gian này Phan Chu Trinh có Santé thi tập với hơn 200 bài thơ sáng tác trong tù). Phan Dật bị ốm phải về nước, rồi mất tại Huế (5-1914).Sau nhờ có các bạn ở Đảng Xã Hội và Hội Nhân quyền can thiệp nên Phan Chu Trinh được, nhưng bị cắt các khoản phụ cấp sinh hoạt Phan Chu Trinh về nhà của  LS Phan Văn Trường ở  6 đường Village des Gobelins, được nhà nhiếp ảnh yêu nước Khánh Ký dạy cho nghề chụp ảnh. Nguyễn Tất Thành (sau là Chủ tịch Hồ Chí Minh) sau khi đến Paris gặp Phan Chu Trinh cũng lưu trú tại đây một thời gian. Chính tại ngôi nhà này ba nhà yêu nước Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành đã soạn bản "Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi Hội nghị Versailles, ký tên chung là "Nguyễn Ái Quốc". Nhờ việc rửa ảnh có thể tạm đủ sống, về sau Phan Chu Trinh chuyển đến căn gác ở tầng 2 nhà số 6 ngõ Compoint, sau cũng là nơi ở của Nguyễn Ái Quốc trong các năm 1921-1923. Nhiều lần Phan Chu Trinh xin về nước, nhưng CP Pháp từ chối, đến khi CP của đảng cánh tả lên cầm quyền Phan Chu Trinh mới đựoc phép về nước.
  trên đất Pháp tất cả 14 năm, ngày 26-6-1925 Phan Chu Trinh  về đến bến Ô Cấp (tức Vũng Tàu), được nhà yêu nước Nguyễn An Ninh mời về nghỉ tại khách sạn Chiêu Nam Lầu của gia đình ôngở Sài Gòn. Quốc dân nghe tin cụ Tây Hồ về nước ai cũng tưởng vọng, nhiều nơi tổ chức đón tiếp mời cụ đến diễn thuyết, nhưng Phan Chu Trinh chỉ thực hiện đựoc hai cuộc: một cuộc nói về Luân lý đạo đức Đông –Tây, một cuộc nói về Quân trị (quân chủ) và Dân trị (dân chủ). Nhiều năm vất vả bôn ba vì việc nước, lại hai lần bị tù đày, sức khoẻ hao mòn, Phan Chu Trinh lâm bệnh không qua khỏi, từ trần lúc 21g 30 ngày 24-3-1926 tại Chiêu Nam Lầu, thọ 55 tuổi.
Ban tổ chức tang lễ gồm nhiều trí thức nhân sĩ Sài Gòn đã quyết định làm  lễ an táng và truy điệu cụ Phan Chu Trinh lúc 6 giờ sáng ngày 4 tháng 4 năm 1926. Tại Sài Gòn hơn 6 vạn đồng bào đã đến dư Truy điệu. Điếu văn do bạn đòng chí thân thiết là Chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng đọc tại lễ Truy điệu. Sau đó linh cữu cụ Phan được đưa về an táng tại Nghĩa trang của Hội Gò Công tương tế cùng ngày.
Điếu văn của cụ Huỳnh Thúc Kháng có đoạn viết:
“Tình hình trong nước ta bây giờ đang vào nguy ngập, nếu muốn cải cách thì cần liên lạc đoàn thể mới được. Tiếc cho người nước mình còn đang mê mộng, đồng chí với tiên sinh chẳng được mấy người . Vì vậy mà tấm lòng bị phân hóa ra uất ức, uất ức hóa nên đại bệnh huống gì những điều mắt thấy tai nghe dể làm cho tiên sinh cảm xúc mà đau được, chết được, thương ôi!”




Lễ Truy điệu và đưa tang cụ Phan Chu Trinh tại Sài Gòn ngày 4-4-1926



 

Lăng mộ cụ Tây Hồ
 
ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh được xếp hạng làDTLSQG.
 Tại Hà Nội và nhiều thành phố khác trong cả nước cũng tổ chức lễ Truy điệu cụ Phan Chu Trinh. Đúng ngày giờ nói trên, hàng vạn dân Hà Nội tập trung tại quảng trường trước Đền Hai Bà Trưng ở phố Đồng Nhân làm lễ Truy điệu cụ Tây Hồ. Điếu văn tại lễ truy điệu do Chí sĩ Ngô Đức Kế bạn đồng chí cùng hoạt đọng với Phan Chu Trinh viết, với nhiều trí thức nhân sĩ Hà Thành đồng ký tên:
Điếu văn của cụ Ngô Đức Kế:


Văn điếu cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh

(Ngô Đức Kế soạn đọc)


Ngày 22 tháng Hai năm Bính Dần (tức là ngày 4-4-1926)
Bạn cũ:
Ngô Đức Kế, Lương Văn Can, Dương Bá Trạc, Lê Hiến, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Minh Cầu, Trịnh Đình Lưu, Bùi Kỷ
Kính điếu linh tọa Việt Nam chí sĩ Tây Hồ Phan tiên sinh rằng:
Có người chết mà người ta mừng, có người chết mà người ta tiếc. Mừng không phải vì thù riêng, tiếc không phải vì ơn riêng. Lưu xú lưu phương , lúc đậy ván thiên  tức là định luận. Đến như chết mà có quan hệ đến quốc dân, đến xã hội thì tình thương tiếc có phải là riêng những người quen biết đâu!
Tiên sinh sinh cuối thế kỷ thứ mười chín, gặp buổi toàn cầu đương đua tranh mà nước ta vẫn còn mê ngủ; kẻ thì mải miết khoa cử, kẻ thì tấp tểnh lợi danh; triều đình vẫn quen thói áp chế, quan trường vẫn theo lối gian tham, quốc dân thì não chất chưa khai, chí sĩ thì phương châm chưa định.
Tiên sinh đã trải qua đường khoa cử, áng quan trường  rồi, thấu hết tình tệ, đem nhiệt tình muốn cứu nước đi khắp trong Nam ngoài Bắc, Nhật Bản, Trung Hoa; để con mắt xem xét, biết rằng muốn cứu nước phải khai dân trí, chấn dân khí làm đầu, mới xướng ra chủ nghĩa cải cách chính trị. Ngôn luận của tiên sinh như mõ gõ, chuông khua, quốc dân đã dốc lòng tín ngưỡng.
Luy luy thiết toả xuất đô môn
Khảng khái bi ca, thiệt thượng tồn
Quốc thổ trầm luân, dân tộc tuỵ
Nam nhi hà sự phạ Côn Lôn
Xem thế thì đủ biết phách lực của tiên sinh, can đảm của tiên sinh quả nhiên công lý , không vì cường quyền mà chịu ép. Bấy giờ mới được rời chân hải đảo, rộng bước Ba thành , nhân dịp ấy mới giao kết những bậc thượng lưu bên Pháp, hết sức vận động việc cải cách chính trị và rèn đúc tinh thần ái quốc cho du học Việt Nam, anh em trong nước ai cũng mừng thầm.
Tiên sinh nhân du lịch mà rộng thêm học thức, quốc dân theo trình độ mà đến lúc mở mang, rắp tâm khi về nước đem cái mắt như sao, lưỡi như sóng, khua hết miền Nam bể Bắc, dắt nhau lên chốn vũ đài.
Ai ngờ tàu Ô Cấp  vừa mới cắm neo, bệnh Tử Phòng  đã toan kiêng thóc . Bài diễn thuyết bên tai vừa mấp máy, điện phó âm  trong nước đã vang lừng. Phàm nội trong Việt Nam già đến trẻ, gái đến trai, vãn  cái lòng sắt đá của tiên sinh, cảm cái bước đắng cay của tiên sinh, tiếc cho tiên sinh tạo nhân  mà chưa thấy kết quả, ai chẳng vì tiên sinh giỏ hai hàng nước mắt. Huống chi chúng tôi, kẻ thì cùng bạn bút nghiên, kẻ thì chung vòng hoạn nạn, tình thương tiếc biết là dường nào!
Núi Ngũ Hành  mây phủ bóng phách tinh ; sông Cửu Long sóng tràn bờ trụy lệ .
Đường xa dặm thẳm, khôn bề đắp cỏ trước mồ; kẻ khuất người còn, gọi chút chiêu hồn cửa Phật. Nhân ngày tang sự, đặt tấm vi thành .
Than ôi!
Trượng phu bốn biển là nhà, chí sĩ vợ con là nước; bậc đại nhân có quản chi sống chết, tấm linh hồn còn tỏ với non sông!
Mài sắt có ngày nên kim, sự ấy còn mong phường hậu tử; trồng cây chực  ngày ăn quả, làm sao cho nối chí tiên sinh. Than ôi!
Ngạn xuyên Ngô Đức Thọ
Sưu tầm và phiên âm (theo bản chữ Nôm chép trong tập Hợp quần doanh sinh đồ thuyết, Viện nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu VNv.224). 
Phan Chu Trinh (cũng đọc Phan Châu Trinh) tự Tử Cán hiệu Tây Hồ và Hy Mã.
Tác phẩm :
Ðầu Pháp chính phủ thư (1906)
Phan Tây Hồ di thảo T.1 & T.2 (Ngô Đức Kế biên tập, xuất bản H.,1927)
Tuồng Trưng Nữ Vương (soạn chung với Huỳnh Thúc Kháng, Phan thúc Duyện)
Trung Kỳ dân biến thủy mạt ký (1911)
Santé thi tập (gồm hơn 200 bài thơ, soạn trong tù tại Pháp, 1915)
Thư thất điều ( vạch 7 tội của vua Khải Định, 1922)
Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (1912-1913)
Tỉnh quốc hồn ca I, II (phần I, làm khi ở Việt Nam (1907), phần II, làm khi sang Pháp (1922).
Bức thư trả lời cho người học trò tên Ðông (1925, đã sưu tập trong Phan Tây Hồ di thảo T.II.)
Đông Dương chính trị luận (1925)


Thủ bút của NGÔ ĐỨCKẾ

đề bìa cuón Phan Tây Hồ di thảo T.II
















 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét