Thứ Ba, 9 tháng 10, 2012

THÁM HOA NGUYỄN ĐỨC ĐẠT (1825-1887) và TRƯỜNG ĐÔNG SƠN NỔI TIẾNG CUỐI TK XIX



Thám hoa NGUYỄN ĐỨC ĐẠT  (1825-1887) và
TRƯỜNG ĐÔNG SƠN NỔI TIẾNG CUỐI TK  XIX
NGÔ ĐỨC THỌ

NGUYỄN ĐỨC ĐẠT  阮 德 達Người xã Nam Kim tổng Trung Cần huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An – Nay là thôn Hoành Sơn xã Khánh Sơn huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An.
Con Nguyễn Đức Hiển, anh Nguyễn Đức Huy, cha Nguyễn Đức Đảng, cháu họ Nguyễn Đức Diệu, anh họ Nguyễn Đức Quý.

Sinh năm Giáp Thân (1824).Cử nhân khoa Đinh Mùi (1847).
30 tuổi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh nhất danh (Thám hoa thứ nhất).
Khoa thi này (1853) vua Tự Đức đặc cách lấy đỗ 2 Thám hoa: Nguyễn Đức Đạt là “Đệ nhất danh” , Nguyễn Văn Giao là “Đệ nhị danh”. Lại đặc biệt nữa là cả hai Thám hoa đều là người tổng Trung Cần, nhà cách nhau chỉ vài cây số, người địa phương thường gọi Thám hoa Nguyễn Đức Đạt là ông Thám Nhất, Thám hoa Nguyễn Văn Giao là ông Thám Nhì.
QTKB (II,11b);KLHB (II,7a);ĐNTL (CB4-9); ĐNLT(Nhị, 38-8b); N°16482.
Lúc đầu Nguyễn Đức Đạt được bổ chức Thị giảng Tập Hiền viện, sau thăng Cấp sự trung. Được ít lâu xin về quê phụng dưỡng cha mẹ già. Năm Canh Thân (1860) trở lại Kinh, được bổ chức Chưởng ấn Kinh kỳ đạo. Được ít lâu cha mẹ già qua đời, ông xin về cư tang, rồi mở trường dạy học. Học trò nghe danh tiếng gần xa đến xin theo học rất đông.
Tiếp đó là những năm Nguyễn Đức Đạt “đăng trướng thụ đồ”: Thoạt đầu ông nhận lời đến dạy học ở làng Hương Vân (Nam Đàn), sau dân làng Lãng Đông dựng sẵn một ngôi trường rồi gánh lễ sang đón mời ông đến dạy. Mùa đông năm Kỷ tỵ (1869), tổng đốc Võ Trọng Bình lại thỉnh cầu triều đình khởi phục Nguyễn Đức Đạt giữ chức Đốc học Nghệ An lần thứ hai. Lần này thì cghưiea đầy hai năm, đến cuối Tân Mùi (1871) triều đình lại thăng chức điều ông đi giữ chức quyền án sát Thanh Hoá. Ra Thanh chỉ được nửa năm lại có văn thư ở bộ lần thứ ba điều ông về làm Đốc học Nghệ An. Về Nghệ chưa đầy mười ngày lại tiếp chiếu chỉ thăng Nguyễn Đức Đạt làm Bố chính sứ kiêm lĩnh chức tuần phủ Hưng Yên. Nguyễn Đức Đạt đến Hưng Yên 9-1872 liền phải khẩn trương lo việc đối phó với quân Pháp lúc ấy đang ráo riết chuẩn bị đánh chiếm Bắc Kỳ. Tháng 11 năm ấy xẩy ra chuyện lái buôn Pháp là Jean Dupuis (Đồ Phổ Nghĩa) đem tàu thuỷ vào nội địa khiêu khích các tỉnh ven sông. Hưng Yên nằm trên trục sông Hồng, việc ứng phó thuộc trọng trách của tuần phủ Nguyễn Đức Đạt. Nhưng khó khăn cho ông là ở chỗ đối sách của vua và triều đình trước việc này rất lúng túng, vừa muốn cảnh giác để khỏi xẩy ra tổn thất, nhưng lại sợ làm người Pháop hiểu lầm cho là ta gây hấn. Triều đình lệnh cho Hà Nội và các tỉnh lân cận : “ Phải tuỳ cơ ứng biến, không dẫn không tiếp, khiến cho bọn chúng đến nơi nào cũng thấy khó đi nổi mà phải lui ra….Ta đừng gây hấn trước để khỏi tổn thất là được”. Lệnh trên như thế, cho nên khi đoàn thuyền võ trang của Đồ Phổ Nghĩa đi qua địa phận Hưng Yên, Nguyễn Đức Đạt sai phó lãnh binh Trần Lương đưa một đội quân đi dọc theo bờ đê để đề phòng bất trắc. Không ngờ vua Tự Đức nghe tâu việc ấy cho trằng làm như vậy “ dễ phật lòng người Pháp”, ra lệnh giáng TRần Lương hai cấp, tuần phủ Nguyễn Đức Đạt và án sát Tôn Thất Phan bị giáng một cấp, cho lưu chức”. Sau vụ Dupuis, tướng Pháp là Francis Garnier với một nhúm quân chưa đầy ba trăm tên đã chiếm bốn tỉnh Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Dịnh chỉ trong hai tuần lễ (20-11/ 5-12-1873). Sau khi chiếm Hà Nội, F. Garnier sai Belny d’ Avricourt và Harmand đưa quân xuôi sông Hồng xuống Hưng Yên hạch sách các khoản đã ký với triều đình. Tuần phủ Nguyễn Đức Đạt và án sát Tôn Thất Phan nói rõ lý lẽ tranh biện dằng dai để đối phó. Tiếp đó triều đình ký với Pháp hiệp ước 1873, cho nên Hưng Yên được vô sự. Nguyễn Đức Đạt được thực thụ chức Tuần phủ, Tôn Thất Phan cũng được ban khen.
Năm ất Hợi (1875) triều Tự Đức có cuọc điều trần lớn về đê điều ở Bắc Kỳ. Nhiều quan chức ở các bộ viện và quan đầu các tỉnh có đê dâng sớ tâu bày hiện tình đê diều và đề xuất các giải pháp. Các ý kiến đại khái chia làm 3 phái: một phái “thỉnh hưu” tức là chủ trương bỏ đê, để cho mưa lũ tự do tràn qua trên diện rộng, ngập nhanh rút nhanh; một phái “thỉnh trúc”, chủ trương xin tiếp tục cho đắp đê giữ đê; một phái khác nữa ở bộ Công xin “bán trúc bán hưu” (nửa đắp nửa thôi) tức là chủ trương ở thuợng du tiếp trục cho bồi đắp các đê cũ, còn ở hạ du thì bỏ đê, những nơi đê đã vỡ không đắp lại mà cho đào rộng thêm ra cho nuớc thoát mau ra biển .
Nguyễn Dức Đạt làm tuần phủ Hưng Yên trong những năm tỉnh này liên tiếp bị vỡ đê. Chính ông phải nhiều lần đi phát chẩn cứu tế cho dân đói các nơi ở Phù Cừ, Diên Hà, Khoái Châu v.v…Ông bảo học trò: ở đâu không biết chứ ở Hưng Yên mà bỏ ddee thì dân chết!” Vì thế ông dâng điều trần cực lực phản đối việc phá đê mà cũng không tán thành chủ trương “bán trúc bán hưu” của bộ Công do thượng thuqư Trần Bình đề nghị. Quan tỉnh Hà Nội (tuần phủ Trần Hy Tăng) và Hải Dương (tuần phủ Nguyễn Tăng Doãn) cũng ủng hộ điều trần của Nguyễn Dức Đạt. Vua Tự Đức thấy quan đầu các tỉnh chủ yếu ở đồng bằng Bắc Bộ đều xin tiếp tục giữ đê cho nên tấu nghị của bộ Công bị dẹp bỏ không được phê chuẩn.
Cùng trong năm ất Hợi (1875), Nguyễn Dức Đạt còn dâng về triều một tờ sớ nữa, lần này với nội dung xin cho dân Hưng Yên được hoãn việc thi hành lệ thuế mới trong ba năm. Vua Tự Đức vốn đánh giá cao tài năng của Nguyễn Đức Đạt, tuy ông Thám này mấy lần xin cáo quan nhưng vua vẫn hỏi han để cất nắhc cho đến chức Tuần phủ, lại như việc đê điều vua cũng có ý khen, nhưng lần này Nguyễn Đức Đạt dâng sớ xin miễn giảm thuế cho dân đúng vào lúc triều đình đang cần thóc tiền thuế má tức là chạm vào một vấn đề rất huyết mạch của triều đình, thì Tự Đức thịnh nộ thực sự: chẳng những tờ tâu không đựoc phê chuẩn mà tác giả của nó còn bị khiển trách nặng nề, và bị giáng hai cấp.
Sau khi tờ tâu việc thuế bị bác đi, mặc dầu vẫn được lưu chức cũ, nhưng Nguyễn Đức Đạt cảm thấy chán nản, nên đến cuối tháng hai năm Bính Tí (3-1876) ông lấy cớ ốm đau bệnh tật xin cáo quan về nhà  .
Sau khi về quê Nguyễn Đức Đạt thường tịnh xá chùa Đông Sơn đọc sách viết sách, nhưng chẳng chịu cho ông được nghỉ lâu, dân làng Hoành Sơn mau chóng dựng ngay ngôi trường năm gian để đón ông về làng dạy học. Từ đây đến ngót chục năm cuối đời của Nguyễn Dức Đạt là giai đoạn trường Hoành Sơn rất nổi tiếng trong sự nghiệp giáo dục của ông.
Lối học ngày xưa khai trường thì có định kỳ, nhưng nhập trường thì không có hạn định. Học trò của ông có thể nói đông lên từng ngày. Đất Nghệ Tĩnh từ xua vẫn sẵn truyền thống hiếu học, không chỉ bên Hưng Nguyên Nam Đàn mà cả bên Hương Sơn, Đức Thọ, Can Lộc học trò nghe tiếng cụ Đốc Thám Nhất về quê dạy học thì kéo nhau đến ùn ùn. Các cụ già nói từ khi cụ Thám về dạy học làng Hoành Sơn ngày nào cũng như đám hội. Ngôi trường năm gian học trò ngồi tràn cả ra sân, mỗi khoá có thể cũng đến cả trăm người. Cả mấy thôn Đông Sơn, Nam Sơn, Hoành Sơn đều có học trò các nơi đến trọ học. Chúng ta không biết rõ trong cả hai thời kỳ trường Thông Lãng (1866-1869) và trường Đông Sơn (1877-1883) số học trò của thầy Nam Sơn chính xác bao nhiêu người, chỉ biết chẳng hạn riêng một năm Kỷ Tị số học trò có mặt trong cuộc cxướng hoạ về đề tài hồ sen trường Thông Lãng là 35 người. Vậy hơn 10 năm dạy trường làng và 5 năm làm Đốc học Nghệ An, môn sinh của Nguyễn Đức Đạt đến từ khắp nơi trong chốn sông Lam núi Hồng trước sau có thể đến “cả nghìn người” như lời truyền. Trong của nền giáo dục tư thục đương thời, xét về ý nghĩa truyền bá Nho phong giáo hoá thì đó là một con số đào tạo rất đáng kể. Học trò của ông có nhiều người thành đạt, như Đặng Văn Thuỵ người làng NHo Lâm huyện Đông Thành vốn là con nhà thợ rèn, được ông thu nhận cho học từ năm 13 tuổi, sau đỗ Hoàng giáp (1904), Đinh Văn Chất (Tiến sĩ,1875), Nguyễn Đức Quý (hoàng giáp 1884) trở thành lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa cần vương ở địa phương.
Chương trình thì cũng theo cách chung là Tứ thư ngũ kinh, nhưng học trò của cụ Thám là các anh đồ (sinh đồ, cử nhân), anh tú ( tú tài), cho nên cụ chỉ giảng Chu gia luận thuyết, tuéc là lời bàn luận của các nhà, chứ không phải giảng chính văn. Mỗi tháng dù hạng thấp hay hạng cao đều có ba bài tập phải chấm điểm. Mỗi bài học trò làm xong có anh trưởng tràng đi các nhà thu bài nộp cho cụ giáo. Cụ Thám chấm bài xong rồi theo đúng lịch mà thòi tiết topots thì cụ dẫn học trò đến chỗ bãi núi làng Đông Sơn để bình văn. Nơi đây dòng sông Lam chảy qua bến Đại Lạn soi bóng ngọn núi Đồn có những cây ngô đồng thưa lá đẹp như bức tranh cổ. Thầy ngồi trên bậc một tảng đá lớn có đục ba chữ to “ 三屏岩 Tam bình nham” (nét chữ tuy rêu phong nhưng đến nay còn rõ tốt ), học trò che lều tạm và chia nhau ngồi trên các tảng đá để nghe thầy giảng (một số tảng đá học trò ngòi ấy nay còn). Thầy đã chọn trước các bài văn, lần lượt giao cho trưởng tràng đọc to từng bài, rồi thầy “phê” các văn từ ý tứ v.v…Bình giảng xong mọt hai bài tiêu biểu, thời giờ còn lại dành cho các cuộc vấn đáp rất hứng thú giữa thầy và trò. Nội dung các cuộc vấn đáp này phần nhièu đãđược các học trò của ông ghi chép biên tập – và đặc biệt là rất nhanh chóng tổ chức khắc in thành sách, khiến cho Nguyễn Đức Đạt có thể nhà giáo may mắn nhất mà các tác phẩm chủ yếu đều được khắc in lưu truyền ngay khi còn sống. Các tập Cần kiệm vựng biên (1870), Việt sử thặng bình (1881), Nam Sơn tùng thoại (1880) v.v…đã ra đời như thế. Ngày nay đọc các tác phẩm của Nguyễn Đức Đạt chúng ta rất hứng thú nhận thấy ông có những học trò thông minh tuyệt vời. Họ thay nhau, mỗi người  nhằm vào một khía cạnh, nhưng chỉo với vài ba câu đã đủ sức bắt mối để được lĩnh hội gần như trọn vẹn những vấn đề học thuật uyên bác. Cũng qua

















Chỗ tảng đá thầy Nam Sơn ngồi bình vănm đó nay còn rõ dòng chữ đề “Chủ nhân bình văn xứ 主人評文処  ”. Cạnh đó, trên một tảng đá khác có chữ: “Đạt, bản tự Nam Sơn Khả Am 達本字可庵 ”. Buổi trưa thầy trò nghỉ tại chỗ, chỗ thầy nằm là một phiến đá phẳng đề hai chữ “ Bán tiên 半仙”, bên cạnh đề chữ: “ Chủ nhân thuỵ xứ 主人水睡 ”. Sát mép nước có phiến đá có lẽ là nơi các học trò và thầy Nam Sơn ngồi hóng mát, đề “Tình pha toạ lương xứ  晴坡 座涼 ”, hai bên có câu đối “ 喧閑皆帝賜俛仰有 天臨  Huyên nhàn giai đế tứ, Phủ ngưỡng hữu thiên lâm/  Nhàn bận vua ban cả, cúi ngước có trời trông ” Tảng đá dưới cùng, mọc dựng sát lối đi, có hai chữ “仰之Ngưỡng chi”. Khi cụ Nguyễn Đức Thuý cháu nội cụ Nam Sơn dẫn tôi đến thăm vào năm 1973, tôi rất hứng thú và ngạc nhiên nhận thấy nơi đây quả thật là một khu di tích lộ thiên rất có ý nghĩa.Thế nhưng đã gần tròn 40 năm trôi qua, tôi có ý theo dõi mà chưa thấy một dòng chữ nào viết về khu bảo tàng ngoài trời có thể là độc nhất vô nhị của ngành giáo dục nuớc ta. Tôi cũng có chụp một số ảnh, nhưng bài chưa đăng mà phim cũ ảnh hỏng từ lâu. May tìm được chính đúng một số bức ảnh do đốc học Nghệ An người Pháp Le Breton chụp hồi đầu thế kỷ XX xin chép lại tiện tham khảo khi nghiên cứu về nhà giáo dục nổi tiếng Nguyễn Đức Đạt.


 
Quan tỉnh tâu về triều lại xin bổ ông vào chức Đốc học Nghệ An (1863). Sau thăng án sát Thanh Hoá, Tuần phủ Hưng Yên. Năm Tự Đức 26 (1873), bốn tỉnh Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình bị quân Pháp chiếm. Hưng Yên ở gần các tỉnh đó mà vẫn yên ổn, ông được Tự Đức ban thưởng. Sau vì ốm yếu nên cáo quan về quê dưỡng bệnh (3.1876).
Tháng 8-1875 vua Hàm Nghi ra trạm sơn phòng Hà Tĩnh hạ chiếu cần vương, phong Nguyễn Đức Đạt làm Lại bộ Thượng thư kiêm Tổng đốc An Tĩnh. Ông cùng với em con chú là Hoàng giáp Nguyễn Đức Quý chiêu tập nghĩa quân cần vương đóng ở đình làng Hoành Sơn. Sau vì thế cô, nghĩa quân phải rút vào rừng núi.  Tuổi già yếu không đi theo nghĩa quân được, Nguyễn Đức Đạt ở lại ẩn lánh trong chùa Nam Sơn tại quê nhà, rồi mất (2.1887). Thọ 63 tuổi.
Đại Nam liệt truyện viết: 
“Đức Đạt vốn có danh tiếng lớn, khi tuổi già ăn mặc xoàng xĩnh, gửi tâm hồn nơi non nước, lấy giảng dạy trước thuật làm vui, rong chơi nơi đồng ruộng hơn mười năm, rồi mất năm 63 tuổi”
- Theo Tự Thuật của Nguyễn Đức Đạt, ông sinh năm ất Dậu (1825), nhưng trong bản khai đi thi, Lý trưởng bản xã đã ghi nhầm là sinh năm Giáp Thìn (1824) - xem Khả Am văn tập, 59a.
-ĐNLT nói cha Nguyễn Đức Đạt tên là Quang, đỗ Hương cống triều Lê, làm quan đến chức Lại bộ Viên ngoại lang. Như vậy có khả năng dưới triều Gia Long Nguyễn Đức Quang đăng ký dự thi lạiổơ trường Thanh -Nghệ với tên Nguyễn Đức Hiển, đỗ Hương cống khoa Gia Long Kỷ Mão (1819)(x. QTHKL, Q.1)
- Nguyễn Đức Đạt tự Khoát Như  豁如 và Sĩ Bá 士伯 , hiệu Khả Am 可庵 và  Nam Sơn  南山主人
Tác phẩm có:
Nam Sơn tùng thoại 南山叢話
Nam Sơn song khoá  南山窗課
Hồ dạng thi 樣詩
Vịnh sử thi  詠史詩
Việt sử thặng bình  越史剩評
Cần kiệm vựng biên 勤儉彙編 
Khảo cổ ức thuyết 攷古臆 v.v…
Nam sơn tùng thoại (NSTT), tác phẩm chính của Nguyễn Đức Đạt, gồm 4 quyển, do học trò ghi chép lời dạy của thầy, biên tập thành sách và góp tiền khắc in xong vào tháng 11 năm Tự Đức thứ 33 (12-1880).





  Đốc học Nghệ An  Hippolyte Le Breton cùng Cựu Bắc Kỳ Kinh lược sứ
Hoàng Cao Khải và Cựu Thượng thư Bộ Học Cao Xuân Dục chụp ảnh tbên
bia mộ chí Thám hoa Nguyễn Đức Đạt. Bên phải: Bìa cuốn Nam Sơn tùng thoại  南山叢話 (4 Q), tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đức Đạt

Sách chia làm 32 thiên, ngoài thiên Bình cư平居 ở cuối sách là lời học trò ghi lại cuộc sống thanh nhã bình nhật của thầy, chính văn gồm 31 thiên: Học vấn 學問, Đại đạo 大道 , Thư tịch 書籍 , Văn chương 文章 , Sư hữu 師友, Chí hạnh 誌行 , Sự ngôn 事言 , Đức tính 德性 , Tài tình才情 , Sĩ tiến 仕進 (Q.1) ; Trị đạo治道 , Pháp chế 法制 , Chính thuật 政術 , Binh yếu 兵要 , Quốc dụng 囯用 , Hình thưởng 刑償, Lễ nhạc 禮樂 , Tri nhân  知人 (Q.2) Nhậm sử 任使 , Quân đạo 君道, Thần liêu 臣僚  , Tự luân 序倫  , Thánh hiền 聖賢, Thuật nghiệp 述業, Bách gia 百家 , Thiệp thế  涉世(Q.3); Danh phẩm 名品 , Vận số 運數 , Phúc đức 福德 , Bình cư 平居, Cách vật 格物 , Đàm dư  談餘 (Q.4).

Hệ thống chủ đề này tham chiếu vài trục có thể thể hiện được hầu hết các phạm trù Nho giáo, khiến cho người đọc có thể nắm bắt được đại thể đường hướng tư duy và kiến giải về nhiều vấn đề học thuật của nhà trí thức Nho giáo Nguyễn Đức Đạt.
Tư duy học thuật của Nam Sơn chủ nhân quan triệt trong toàn bộ tác phẩm, nhưng tập trung nhất ở các thiên Đại đạo, Trị đạo , Pháp chế, Quân đạo, Bách gia.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét