CÁCH NAY 80 NĂM, NGÔ ĐỨC KẾ LÀ NGƯỜI ĐẦU TIÊN GIỚI THIỆU TIỂU SỬ TỔNG THỐNG MỸ G.WASHINGTON Ở VIỆT NAM
George Washington là vị anh hùng đã lãnh đạo thành công cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ, mở ra nền độc lập cho nước Mỹ và trở thành vị Tổng thống đầu tiên của Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ (The United States of America).
Ngày nay Hoa Kỳ là nước có nền kinh tế, khoa học kỹ thuật phát triển bậc nhất đồng thời cũng là quốc gia có lực lượng quân sự hùng mạnh nhất thế giới.
Không ít các chuyên gia Việt Nam nghiên cứu về lịch sử chung cũng như lịch sử chính trị của nước Mỹ. Tên tuổi của Tổng thống G.Washington rất nổi tiếng ở Việt Nam. Nhưng có lẽ vẫn chưa nhiều người biết rõ tiểu sử của vị Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Cách đây hơn 80 năm, khoảng những năm 30 của thế kỷ trước, tất nhiên càng rất hiếm người biết đến công lao sự nghiệp của G.Washington đối với người dân Mỹ và cống hiến to lớn của ông đối với lý tưởng đôc lập, tự do, dân chủ của nhân loại tiến bộ trên thế giới.
Chính vì muốn giới thiệu tấm gương cuộc đời của vị anh hùng dân tộc của Hoa Kỳ với người dân Việt Nam - nhất là tầng lớp thanh niên trí thức học sinh thời bấy giờ, nhà hoạt động yêu nước Ngô Đức Kế đã viết thiên truyện ký Hoa Thịnh Đốn, mở đầu cho bộ sách mang tên Đông Tây vĩ nhân.
Ngô Đức Kế là bạn cùng hoạt động, hợp tác rất thân thiết cả với cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh. Cụ Tây Hồ đỗ đồng khoa với Ngô Đức Kế (1901), mỗi lần từ Quảng Nam ra Hà Nội hay từ Hà Nội trở về Quảng đều dừng tại Nghèn (Can Lộc, Hà Tĩnh) để bàn bạc việc nước với Ngô Đức Kế. Khi phong trào bị đàn áp, Ngô Đức Kế cũng theo chân cụ Tây Hồ bị đế quốc Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Hại cụ cùng sống cảnh tù đày ngoài đảo mấy năm với nhau, sau cụ Tây Hồ được tha về và đựoc sang Pháp tiếp tục vận động cách mạng. Khi cụ Tây Hồ từ Pháp về thì cụ Ngô Đức Kế từ Côn Lôn cũng đã được tha về vài năm, ra Hà Nội làm Chủ bút báo Hữu Thanh khá có tiếng vang trong nước. Năm 1926 Ngô Đức Kế là người đứng đầu Ban Tổ chức Lễ truy triệu cụ Phan Chu Trinh tại Hà Nội.
Do thực dân Pháp tìm cách hạn chế ảnh hưởng các nước tân tiến khác ngoài Pháp, cho nên cuốn sách cũng chưa phát huy được tác dụng đáng có của nó. Tuy vậy, đối với đương thời, cuốn Hoa Thịnh Đốn nêu lên với người đọc Việt Nam một nhận thức mới mẻ về nền chính trị thế giới. Đồng thời cuốn sách là một minh chứng cho thấy với tinh thần yêu nước chống ngoại xâm, xã hội lúc bấy giờ sôi động các hoạt động chính trị tìm đường cứu nước. Khi nhà in Tiếng Dân in xong cuốn Hoa Thịnh Đốn này thì trước đó mấy tháng ba tổ chức Cộng Sản đầu tiên ở nước ta đã hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Đông Dương). Đó là một hướng đi cứu nước nhìn về sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản. Trước đó một số năm, lời kêu gọi dân quyền của cụ Phan Chu Trinh vang lừng khắp trong nước. Cụ Tây Hồ đúc kết tinh hoa của văn minh phương Tây mà bao trùm lên các nền văn minh ấy là hai chữ Dân chủ và Dân quyền. Đó cũng là lời kêu gọi lay tỉnh của bậc Đại chí sĩ đối với đồng bào cả nước. Để phát huy tư tưởng của cụ Tây Hồ, khi biên tập Phan Tây Hồ di thảo, Ngô Đức Kế đã viết thêm một đoạn gồm 4 ý bổ sung mà hai người đã từng thảo luận với nhau nhưng cụ Tây Hồ trong một bài diễn văn ngắn chưa kịp viết ra. Đọc cuốn Hoa Thịnh Đốn, chúng ta có thể thấy Ngô Đức Kế muốn bổ túc cho một cái nhìn chính trị thế giới rộng mở hơn chứ không giới hạn bởi nền dân chủ của các nước châu Âu. Ngô Đức Kế là ngưòi đầu tiên hướng tầm nhìn đó của đồng bào mình về phía nền dân chủ đầu tiên trên thế giới, đó là Hoa Kỳ. Đây không phải là một ý định nhất thời, mà là chủ trương nhất quán mà Ngô Đức Kế muốn nêu lên với công luận. Sau khi đã giới thiệu về Bacon và Descartes, hai nhà khoa học đựoc coi là “ông tổ của nền văn minh đời nay” và Ch.Darwin “ông tổ của học thuyết Thiên diên [Tiến hoá]”, liên tiếp hai cuốn đầu của bộ Đông Tây vĩ nhân Ngô Đức Kế giới thiệu tiểu sử sự nghiệp của hai Tổng thống Hoa Kỳ là G.Washington và A.Lincoln. Đọc tiểu truyện về hai vị tổng thống lừng danh trong lịch sử nước Mỹ, người đọc trước đây cũng như hiện nay có thể cảm nhận được bản chất nhân văn chủ nghĩa của các cuộc chiến tranh cách mạng và bảo vệ độc lập của nước Mỹ mà ngay từ khi lập quốc người dân đã thực sự có quyền cầm nắm vận mệnh của mình. Đó là một tiền đề rất quan trọng, khiến cho nền dân chủ của quốc gia Bắc Mỹ này có những đặc điểm rất mới mẻ, sinh động, trở thành cảm hứng cho một xã hội dân sự năng động, phát triển. Nhận thấy những lý tưởng khát khao tự do dân chủ cho tất cả mọi người mà G.Washington thể hiện trong cuộc đời anh hùng mà chất thực, bình dị của ông là tấm gương lớn không chỉ của người Âu Mỹ mà cả đối với chúng ta ngày nay, chúng tôi đưa lên mạng bài này để quý vị và các bạn đọc trẻ tuổi quan tâm tham khảo. Chỉ có 2 điều muốn ghi chú:: 1-Ngô Đức Kế viết bài này cách đây hơn 80năm, bấy giờ văn tiếng Việt trên sách báo vẫn đang trên đường phát triển bước đầu, còn dùng nhiều từ Hán Việt và cấu trúc văn pháp chưa có những phong cách nhẹ nhàng uyển chuyển như này nay. Điều đó có thể gây trở ngại ít nhiều cho cảm hứng của bạn đọc, nhưng có lẽ đó cũng là một thực tiễn để bạn đọc có dịp sống lại một thời đáng nhớ của lịch sử văn hoá Việt Nam. 2-Trong truyện có những tên đất, tên người bằng nguyên văn tiếng Anh văn, Ngô Đức Kế viết theo những nguồn tham khảo của Tân thư Truing Quốc mà phiên ra bằng từ Hán Việt, Ngạn Xuyên từ lâu muốn chú thích ghi nguyên văn tiếng Anh, nhưng hiềm vì chưa tìm chọn được một bản truyện tiếng Anh nào có nội dung tương tự để có thể tham khảo mà chú giải. Việc này mong bạn đọc lượng tất, khi có điều kiện sẽ xin thực hiện sau.
Ngô Đức Kế - cuộc đời & Tác phẩm . Ngô Đức Thọ sưu tập, giới thiêu. Sở VH –TTDL Hà Tĩnh xb.,2008. ĐÔNG TÂY VĨ NHÂN HOA THỊNH ĐỐN
(Washington,1732-1799)
2.Gia thế ông Hoa Thịnh Đốn và khi ông còn trẻ tuổiPhê bình [tức Bình luận] 3. Việc chiến tranh ở đất thực dân nước Anh nước Pháp Phê bình [tức Bình luận] 4.Vua nước Anh áp chế người đất thực dân Phê bình [tức Bình luận] 5. Nước Mỹ độc lập đánh cùng nước Anh Phê bình[tức Bình luận] 6. Cuộc độc lập thành công Phê bình [tức Bình luận] 7. Lúc ông Hoa Thịnh Đốn về nhà cùng những việc vặt của ông Phê bình [tức Bình luận]
HOA THỊNH ĐỐN
(Washington,1732-1799)1. Tổng luận Cái tâm lý phổ thông xã hội đời nay thường nói rằng: ở vào cái xã hội hủ bại gian giải tất phải dùng thủ đoạn khéo léo thì mới có sinh tồn với xã hội, gặp lúc thiên hạ suy loạn, tất phải dùng tài trí quyền mưu mới có thể dẹp yên thiên hạ. Vì lời nói ấy thịnh hành cho nên đám bình dân cứ lấy cái thủ đoạn khéo léo mà ứng đáp nhau, đám quan lại cứ lấy quyền mưu tài trí mà lăng át nhau, làm cho xã hội càng thêm hủ bại, thiên hạ càng thêm suy loạn mãi mãi. Những kẻ xướng cái thuyết ấy vẫn có được chứng cứ về sự thực, mà cũng có chứng cứ trong lịch sử nữa, chứ không phải không. Nhưng ta thử hỏi rằng: Lấy cái thủ đoạn khéo léo mà đối phó cái xã hội gian giảo, có chắc rằng cải lương được xã hội không, hay là lại làm cho cái tuồng gian giảo diễn ra mãi mãi? Lấy quyền mưu tài trí mà đối phó với thiên hạ suy loạn có chắc yên định được thiện hạ không, hay là lại làm cho cuộc suy loạn tiếp theo mãi mãi? Hỏi như thế thì chắc không ai dám quyết đoán cả. Vậy cho nên ta dám nói rằng: người tạo ra phong khí, chứ đừng để phong khí tạo ra người; người xoay đổi lại xã hội, chứ đừng để xã hội xoay đổi người; vì rằng phong khí xã hội càng hủ bại càng gian giảo bao nhiêu, thời chúng ta càng phải lấy cái thủ đoạn mà thế tục cho rằng dốt vụng để mà kéo lại. Điều gì mà thế tục cho là dốt vụng? Tức là lòng chí thành. Lòng chí thành cảm động người ta không phải là nhỏ, từ xưa đến nay, những đứa đại gian hùng, đại đạo tặc làm ngang, làn càn không kiêng sợ chút gì, mà thường gặp phải một hai người có lòng chí thành, cũng bị cảm động mà phải bớt bỏ lòng hư nết dữ. Trong lịch sử chép lại như thế thực nhiều. Cho nên sách đại học lấy thành ý chính tâm làm trước, mà lấy trị quốc bình thiên hạ là sau, xem đó thời biết cái công dụng chí thành thiệt là to lớn lắm thay! Có kẻ nói rằng: cái xã hội ngày nay đã hủ bại gian giảo rất mực, mà chỉ lấy thành thực ở với họ, thì họ lợi mình là đốt vụng mà thường thường làm hại cho mình, người ta ai chẳng ham lợi ghét hại, vì thành thực mà bị thiệt hại thì ai muốn thành thực làm chỉ? Thưa rằng: không phải thế, người ta ai cũng có thiên lương, bọn tiểu nhân không phải không có thiên lương, chỉ vì tiểu nhân ở lẫn với tiểu nhân, cho nên che mắt thiên lương không phát hiện ra được, đến khi gặp người quân tử thì thiên lương phát hiện ra ngay, cho nên những đứa quen làm sự gian giảo, mà một mai gặp người quân tử chí thành, thì động lòng không nỡ dối lừa, hoặc nghe một lời nói quân tử mà sinh lòng ăn năn hối hận, đó là cớ gì? Đó chính là lúc thiên lương phát hiện vậy. Vạn vật trong trời đất tranh nhau cuộc sinh tồn, thường thường loài nào theo loài nấy; loài cỏ cây tranh nhau sống mà không hại gì đến loài sâu, loài sâu bọ tranh nhau sống mà không hại gì đến loài chim, bọn tiểu nhân gian giảo tranh nhau sống ở trong xã hội cũng như thế mà thôi, nó làm hại nhau thường ở trong đồng loại, chứ người quân tử mà bị hại thì cũng ít lắm. ấy không phải là tôi nói quá lời, mà chính là sự thực thường có như thế. Vả chăng, chúng ta ở trong xã hội ngày nay, có mang cái trách nhiệm không, hay là không mang cái trách nhiệm? Nếu không chịu mang trách nhiệm mà chỉ biết lo việc mình, thế thì chẳng bận làm chi. Nếu có chịu mang trách nhiệm mà muốn làm một người cải lương xã hội xoay đổi phong khí, thì dẫu trăm lần nạn vạn lần nguy mà người ta cũng cứ làm, huống chi những việc bị lừa nho nhỏ, đã thấm vào đâu. Vì những việc bị lừa nho nhỏ mà đã lấy làm khó lòng, rồi trở lại chiều đời theo chúng, như thế thì có chút gan ruột nào đâu. Ông Phật nói rằng: mình không vào địa ngục thì ai vào địa ngục. Ông Gia Tô bằng lòng đóng đinh trên giá chữ thập để cứu chúng sinh. Mà sao ta lại vì muốn tránh cái hại gian xảo của xã hội, đến nỗi bỏ cả mình mà bắt chước theo thói gian giảo, đó là bọn hèn mạt tầm thường chứ không phải là bọn mày râu đứng đắn. Vậy cho nên ta dám nói chắc rằng: ở vào xã hội hủ bại gian giảo bây giờ, mà ta cứ ăn ở lấy lòng chí thành, thì người quân tử kính trọng mình, đứa tiểu nhân yêu mến mình, xã hội tín dụng mình một cách chắc chắn, tín dụng đã chắc chắn thì cả xã hội đều trông nom vào mình, lấy mình làm khuôn phép, lời mình nói ra ai cũng nghe theo, trong lúc vô hình mà cái xã hội hủ bại gian giảo kia đã bị mình cảm hóa. Thế thì một người mà có cái sức thay đổi cả xã hội, cái thủ đoạn ấy khéo léo biết bao! Những người mắt tục tưởng ta là dốt vụng; còn những kẻ bắt chước thói gian giảo thì cứ anh này lừa anh kia, rồi anh kia lại lừa anh này, lừa dối lẫn nhau mà hai bên đều bị thiệt hại, thì đến bây giờ họ mới biết họ thiệt là vụng mà không phải khéo. Độc giả nếu chưa tin lời thời hãy xin xem truyện ông Hoa Thịnh Đốn là người dựng ra nước Bắc Mỹ. 2. Gia thế ông Hoa Thịnh Đốn và khi ông còn trẻ tuổi Tổ tiên ông Hoa Thịnh Đốn vốn người nước Anh. Ông tằng tổ ông tên là Tộ Chỉ. Năm 1658, ông Tộ Chỉ cùng anh em hai người qua châu Bắc Mỹ tỉnh Vật Nhĩ Cát Nê A [Virginia] mua đất ở, được ít lâu, ông ấy ra làm quan binh, làm đến chức Đại tá, sinh được hai người con trai; người đầu tiên là Lỗ Liên Sĩ. Ông Lỗ Liên Sĩ cũng sinh được hai người con, người thứ hai tên là áo Đại Tư, Áo Đại Tư lấy vợ sinh được bốn người con, được ít lâu vợ chết, lại lấy vợ khác tên là Mã Lợi Bao, sinh được năm người con trai, ông Hoa Thịnh Đón là con đầu lòng. Ông sinh năm 1732 tháng 2 ngày 22, khi ông mười ba tuổi thời người cha chết, để lời lại chia gia tài điền sản cho mấy người con, mỗi người đều được một phần đất ruộng. Lúc bấy giờ ông còn bé, nhờ bà mẹ Mã Lợi Bao xem sóc cho. Bà ấy có đức hiền, sắp đặt việc nhà, dạy giỗ con cái, bà con làng nước ai nấy đều khen. Tỉnh Vật Nhĩ Cát Nê A vốn không có trường học cao đẳng, mà người trong tỉnh ấy cũng chỉ trông cho biết những việc tri sinh mà thôi, bởi thế con em đi học, nếu đã tập được cái học phổ thông thời đã cho làm đủ rồi, nếu muốn có cao đẳng giáo dục thời phải qua học ở nước Anh. Ông lúc bé cũng vào học hiệu trong tỉnh ấy học, cho nên ông cũng chỉ học được những cách đọc sách tập chữ, tính toán, biên sổ sách mà thôi. Khi ông học ở trường thời siêng năng chăm học, lúc nghỉ học thì ưa làm những cách hoạt bát như những cách đua tranh, nhảy vọt, đua sức, múa gậy, lại hay chơi về việc quân binh, thường nhóm bạn học trong trường, chia làm đội ngũ làm cách luyện tập quân đội, hoặc có khi giả làm đồn làm trại, diễn tập các cách thức đánh giặc. Khi ông bé không hay làm văn chương, học chữ Pháp cũng không tiến bộ lắm, nhưng ông học thì chỉ thiết về đường thực dụng, hay làm sách nhật ký. Ông học toán hiểu được nhiều, đã học thông được phép kỷ hà , lại ưa làm phép trắc lượng. Ông vẽ đồ nhiều lắm, đều đẹp và đúng, không có sai lầm chút nào. Ông cốt học lấy những điều thiết dụng, cho nên phàm văn thư khế khoán đều hay nhớ ngầm được cách thức; lại hay góp những lời cách ngôn, chép thành một quyển sách, thường thường xem đọc sách ấy để sửa mình. Bởi ông hay chơi đùa cách chiến đấu, nên cái tính khí của ông là kịch liệt lắm, nhưng ông khéo biết tự chế, sinh bình giữ khuôn phép, không làm những việc trái đạo đức, vậy nên không khi nào phạm đến tội ác. Cái quyển sách ông góp những lời cách ngôn đó, đặt tên sách là “Ngôn hành quy luật”, thường lấy sách ấy để mà sửa sang ngôn hành của mình, làm nên một nhân vật vĩ đại. Sách ấy nhiều đến mấy trăm điều, nay xin cử một vài điều như sau này: [Điều] 2 : ở trước mặt người ta, lấy tiếng mũi mà hát hoặc lấy tay múa men ấy là điều bất kính lắm. [Điều] 12: ở trước mặt những người có học thức thời không nên nói lặp những điều nhỏ mọn; đối với những người không có học thức chớ nói những điều cao sâu mà người ra khó hiểu, và những vấn đề to lớn. [Điều] 14: Trước khi mình cất lời nói, thời nên xét lại xem có nên nói không? rồi sau dần dần thuận thứ tự mà nói cho rõ ràng, ấy mới là người biết nói. [Điều] 57: Điều nói việc làm ắt phải đối với lương tâm mình không có thẹn. Xem mấy điều trên thì biết ông Hoa Thịnh Đốn chẳng những là người anh hùng mà thực là người thánh hiền vậy. Ông Hoa Thịnh Đốn là người có can đảm trí thức, làm việc gì cũng chẳng sợ nguy hiểm. Ông thường cho những người đi làm lính hải quân. lấy bể làm chiếu lấy trời làm màn, suốt ngày đánh nhau cùng gió mạnh sóng dữ, như thế là khoái thích lắm, cho nên ông muốn đem thân ra làm hải quân. Lúc ông 15 tuổi, anh ông là Lỗ Liên Sĩ, kiếm cho ông được một chức hải quân thiếu úy hậu bổ sinh . Ông mừng lắm, muốn đi mà bà mẹ không cho, vì sợ rằng lúc ấy những người sĩ quan hay buông tuồng không giữ khuôn phép, mà ông tuổi trẻ dễ bị tập nhiễm, nên cứ bắt đi học. Khi ông mười sáu tuổi thì tốt nghiệp ở trường tiểu học hiệu, lúc ấy ông đã thông những phép kỷ hà, tam giác, trắc lượng, có tâm đắc lắm mới làm thực địa luyện tập, trắc lượng những miếng đất quanh trường học. Ông trắc lượng rất tinh tế, biên chép rất kỹ, chẳng sai chút nào. Có người cười ông học chắc chắn quá, nhưng ông không lấy lời nói ấy làm phải, bởi vì ông cho rằng người ở đời bất kỳ việc gì cũng nên phải làm chắc chắn mới được. Anh em ông đều được duy sản cha để lại, chia đất mà ở. Người anh đầu ông là Lỗ Liên Sĩ [Lawrence]ở đất Hàn Trình. Ông đã tốt nghiệp ở trường tiểu học, mẹ ông bảo ông qua ở với anh. Người bố vợ ông Lỗ Liên Sĩ tên là Phật Ai thường đến nhà rể chơi, thấy ông Hoa Thịnh Đốn là người thật thà, ngay thẳng, chín chắn, bạo dạn, ông yêu lắm; thường đem ông Hoa Thịnh Đốn đi xem chỗ lãnh địa của ông ta, xem khắp những sông núi, ruộng nương, trong lúc đi săn bắn. Ông Phật Ai là người văn nhân, tính ông hay ưa những người đại nhân vật, thấy ông Hoa Thịnh Đốn là người có sức nhẫn nại, gặp việc hay phán đoán rõ ràng và không bỏ những điều nhỏ mọn; mới mời ông Hoa Thịnh Đốn đi trắc lượng chỗ lãnh địa của ông ta. Nhưng mà lãnh địa của ông xa ở trên ngàn, rộng hơn đến mấy mươi dặm, đều là khe lớn rừng rậm, rất là hiểm ác, lại thường có những người thổ phiên cướp bóc, những con thú dữ cắn người, nếu không phải người có tính nhẫn nại cùng có khí mạnh dạn phi thường, thời không làm được. Và lúc bấy giờ, nước Anh dời dân sang châu Mỹ rất nhiều, người nào cũng muốn chiếm lĩnh một miếng đất. Vậy nên ông Phật Ai kíp muốn mời ông Hoa Thịnh Đốn trắc lượng để giữ phần đất của mình. Ông Hoa Thịnh Đốn, đã nhận lời ông Phật Ai, năm 1748 cùng một người bạn đi đến nơi ấy trắc lượng, ngày nào cũng chăm làm, ở một cái nhà rất nhỏ. Thường ngày có trù tính việc gì thì suốt đêm không ngủ, một đôi khi nhân ban ngày trắc lượng nhọc mệt, đêm lại muốn nằm mà phòng nằm lại không được sạch sẽ, chỉ lót cỏ rạ mà nằm, không có nệm mà lại lắm rệp, ông không nằm được thường ngồi trên ghế, nhấp mắt đợi sáng. Ông Hoa Thịnh Đốn vốn là con nhà giàu, sinh bình chưa quen việc khó nhọc. Từ khi ông đến trắc lượng chỗ ấy ngày nào cũng ở trong rừng sâu núi rậm, qua suối trèo non, và những thú dữ, những thổ phiên lại thường quấy ông, đêm về thường không được ngủ, nhưng mà ông cứ tự nhiên như là sinh bình đã từng trải qua những cái cảnh ấy, bởi thế nên can đảm ông càng thêm luyện, thân thể càng thêm khỏe, ngày sau làm được công nghiệp lớn, danh tiếng to, đều là đắc lực tự khi ấy. Ông đi trắc lượng hai tháng, phá được những điều chướng ngại, lấy cái tài tinh xảo kỹ càng mà làm hết chức vụ; mới biết hết được cái hình thể thổ địa, và cái tình hình bọn thổ phiên, vậy nên sau ông làm tướng đem quân tới đâu cũng được, đều là nhờ biết thuộc hết địa thế. Từ đấy về sau trong ba năm ông cứ chuyên về trắc lượng, nổi tiếng là một nhà trắc lượng giỏi. Nhà ông Phật Ai có sách rất nhiều, ông Hoa Thịnh Đốn đã ở nhà ông ấy, nên được xem xét các thứ sách, khi thong thả thường cùng ông Phật Ai bàn bạc, nhân đó trí thức lại càng thêm giỏi. Cách vài năm sau thì đất thực dân nước Anh nước Pháp có việc chiến tranh. Phê bình Ông Hoa Thịnh Đốn thuở bé nhờ bà mẹ dạy bảo nhiều; sau tuy có học ở trường tiểu học nhưng học cũng không được mấy, bởi vì lúc ấy tỉnh Vật Nhĩ Cát Nê A không có trường cao đẳng giáo dục. Ngày nay bạn học sinh thanh niên tự mình không biết ham học mà thường cứ chê học đường không tốt; thử xem ông Hoa Thịnh Đốn làm nên bậc thánh hiền hào kiệt, mà lúc đầu đi học thời chẳng qua học ở tại trường tiểu học tĩnh Vật Nhĩ Cát Nê A mà thôi. Bạn học sinh thanh niên ta ngày nay đã chơi đùa thời không chịu dùng công phu, đã họat bát thời không hay giữ khuôn phép. Xem ông Hoa Thịnh Đốn ưa làm chơi đùa, mà học toán thuật học trắc lượng càng thêm tinh, ưa làm hoạt bát, mà một lời nói một việc làm đều giữ khuôn phép. Xem thế thời biết phàm làm việc gì phải biết từng phân từng tấc, nếu mình biết tự chăm chỉ, thời chơi đùa cũng chẳng ham gì, nếu mình hay giữ giàng không phóng túng, thời họat bát cũng không có hại; chớ không phải rằng suốt ngày ngồi im mới bảo rằng biết ham học và biết giữ khuôn phép. Ta thường cho thánh hiền cùng hào kiệt không giống nhau. Thánh hiền giữ lễ phép, cho nên đại thuần; hào kiệt không giữ lễ phép cho nên tiểu tì . Nhưng xem ông Hoa Thịnh Đốn thì chẳng thế, ông thực là người thánh hiền mà lại là người hào kiệt. Xem sách Cách ngôn của ông thời thánh hiền ngày xưa công phu sửa mình chẳng như thế. Xem ông hay làm nhật ký và sao lục các thức văn thư khế khoán thời đủ biết ông đi học ưa thiết dụng, xem ông ưa làm trắc lượng và vẽ đồ tinh tế thời biết ông làm việc hay chắc chắn. Xem ông làm việc trắc lượng cho Phật Ai, không kể mình là con nhà giàu, mà trải bao phen ngày đêm khó nhọc không được nghỉ ngơi, thời đủ biết ông đối với người là cẩn thận mà không phụ cái việc người ta phó thác. Xem chỗ lãnh thổ của ông Phật Ai là đồng hoang rừng rậm, nào thú dữ, nào thổ phiên , biết bao hiểm trở, mà ông làm hết chức trách không chút nào lười biếng, đủ biết cái đảm lượng ông rất hùng tráng; kết quả về sau biết được hình thế núi sông xét được tình hình dân mọi, có bổ ích cho ngày sau ra làm việc nước. Xem thế thì biết phàm người ta bất kỳ khi nào, chẳng nề việc gì, cũng nên để ý kỹ càng chứ không nên quên sót những việc nhỏ mọn vậy. 3. Việc chiến tranh ở đất thực dân nước Anh nước Pháp Tự đời xưa, kẻ anh hùng phần nhiều nhân thời thế mà khởi lên, cho nên kẻ anh hùng là kẻ con tặng của thời thế vậy. Không gặp thời thế nhà Tần, thời sao có ông Lưu Bang, ông Hạng Vũ? Không gặp thời thế nhà Hán, thì sao có ông Lưu Bị, ông Khổng Minh? Cho nên muốn thuật cái sự tích của anh hùng, thì phải đưa cái thời thế có quan hệ đến anh hùng mà nói trước Trước năm 1492 ông Kha Luân Bố đã tìm ra Châu á Mỹ Lợi Gia , các nước Châu Âu thấy đất Châu Mỹ màu mỡ đua nhau đưa dân sang ở; đến cuối thế kỷ thứ 17 suốt bờ biển Đại Tây Dương Bắc Mỹ đều là đất thực dân của các nước. Nước Tây Ban Nha giữ đất Trung Mỹ, nước Pháp thì giữ phía Bắc đất Bắc Mỹ; mà nhất là lãnh địa nước Anh là lớn hơn cả. Nước Pháp có lòng ghen ghét, cho nên nước Anh nước Pháp thường nhân việc muốn mở rộng đất thực dân mà sinh đánh nhau. Năm 1752 Anh và Pháp lại nhân việc địa giới ở đất thực dân, hai nước cãi nhau; nước Pháp xui giục quân thổ phiên lấn cướp lãnh thổ nước Anh; quan trị sự thủ lĩnh nước Anh hạ lệnh mộ dân binh toan đánh nước Pháp. Lúc ấy ông Hoa Thịnh Đốn đã hai mươi tuổi, xin bà mẹ đầu thân vào lục quân, bà mẹ cho đi. Cách tổ chức dân binh, mỗi châu chia làm mấy khâu , mỗi khâu đặt một quan thiếu tá. Ông Hoa Thịnh Đốn đã ra đang việc quân, quan trị sự sai ông làm quan Thiếu tá coi một khâu. Khi ông đã nhận chức, ngày đêm đọc sách binh thư, lại tới nhà binh học gia, nghiên cứu việc quân. Chẳng may ông bị đau mà người anh ông cũng đau, được ít lâu người anh chết, gởi vợ con lại cho ông. Lúc ấy ngoài thời loạn nước, trong thời nạn nhà, chạy vạy trong ngoài rất là khó nhọc; nhưng ở trong đã bằng lòng anh chị, ra ngoài cũng không lười biếng việc quân, cái tâm tư của ông đã nhỏ nhặt mà lại rộng rãi như thế. Lãnh thổ nước Anh ở châu Bắc á Mỹ Lợi Gia thì tỉnh Vật Nhĩ Cát Nê A [ Virginia ] là trung tâm điểm. Quan trị sự tỉnh ấy chia cả tỉnh ra làm bốn khâu, mà một khâu về phương bắc rất là trọng yếu, duy có ông Hoa Thịnh Đốn đương được chức quan khâu ấy. Ông bèn vâng mệnh quan trị sự làm trưởng khâu phương bắc, khi ấy ông mới có hai mươi hai tuổi. Khi ấy nước Pháp mới liên hợp các đất thực dân lại tự Hồ Lớn cho đến Mật Sĩ Thát Tát [Misisipi] trong khoảng vài nghìn dặm đều chọn nơi hiểm trở mà đóng quân, lấn vào lãnh thổ nước Anh. Lại dỗ bọn thổ phiên đánh quân nước Anh, rồi dựng đồn lập trại ở đó. Quan trị sự muốn sai người sang trách hỏi nước Pháp. Nhưng việc ấy trọng đại mà lại nguy hiểm, không ai dám đi, ông Hoa Thịnh Đốn mới than rằng: “Dân trong tỉnh này đã lo mất đất mà lại sợ mạo hiểm, việc trong thiên hạ ắt trước phải ưu hoạn, rồi sau mới được an lạc. Ta nay mà không đi thì ai ai cũng bó tay mà ngồi nhìn, bọn giặc lại thêm đắc thế!”. Ông bèn hăm hở xin đi. Khi ấy quân Pháp đánh lấy lãnh thổ nước Anh, lấy được nơi nào thì đắp thành lũy mà giữ lại. Những người buôn bán nước Anh qua lại dọc đường thường bị cướp bóc. Quan trị sự mới kíp giục ông Hoa Thịnh Đốn đi. Ông mới đi cùng bốn người thổ nhân với một người thông ngôn; đi qua rừng núi rất là hiểm trở; nhưng ông ngày xưa đã từng đi trắc lượng cho ông Phật Ai, cho nên ông biết hết các nẻo đường. Được vài ngày đi đến một làng, ông gọi những người tù trưởng giống dân da đỏ trong làng ấy lại, nói với chúng nó rằng: mình vâng lệnh đi sang quân Pháp; các tù trưởng đều cảm động sai bốn người thổ dân hộ tống ông đi. Người Pháp thường xui giục bọn thổ phiên phản nước Anh, nên những người đi với ông thường muốn giữa đường trốn tránh, nhưng thấy ông là người trưởng giả không nỡ bỏ đi. Khi đã đến quân Pháp, vào quan tổng đốc Pháp nói chuyện. Quan tổng đốc Pháp nói rằng: “Ta vâng mệnh quan trên vì lấy đất mà sang đây, ta chỉ biết cái trách nhiệm của ta, ngoài ra ta không biết việc gì”. Ông Hoa Thịnh Đốn nghe ông tổng đốc nói, biết cuộc hòa ước tất không xong, mới trộm dò các hình thế thành trại quân Pháp và quân đội Pháp nhiều ít mạnh yếu thế nào rồi về. Lúc về dọc đường lại càng nguy hiểm lắm, núi cao chót vót không thể vin trèo được, lại gặp mùa đông, trên đỉnh núi tuyết trắng như giá, đi dọc đường thường thường bị tuyết trên đỉnh núi rơi xuống bằng hòn đá lớn, nếu tránh không lanh tất phải bị chết, người thổ dân không chịu khổ được đều trốn hết, chỉ còn một người theo ông, mà trinh thám Pháp lại thường nấp ở trong rừng lén bắn. Con ngựa ông cưỡi bị ngã mấy lần, rồi chết rét mất. Ông mới cùng một người thổ dân truồng chân đạp tuyết mà đi, trong rừng chẳng có người ở, không biết nghỉ vào đâu, mà lương thực lại hết, không biết lấy gì mà ăn, đói quá, nhặt những miếng tuyết trên đất mà nuốt, rét run không thể đi được, phải nằm giữa tuyết rồi lại dậy đi. Đi được 10 ngày về nói chuyện với quan trị sự và nói ở dọc đường có nhiều nơi nên lập đồn trại. Quan trị sự lại mộ thêm dân binh cho ông làm chức Trung tá, mà sai người khác đi qua lập đồn trại. Quân Pháp dò biết đem quân đến lén đánh, những quân lính đi làm trại đó đều bị bắt hết. Khi ấy ông Hoa Thịnh Đốn đốc suất dân binh dọc đường đắp đồn trại tính kế phòng giữ, nghe có một đội quân Pháp đóng gần trong 5 dặm, ông mới nhân lúc ban đêm đem một đội quân 40 người lén đến đánh, giết được một người tướng và bắt được 21 người đem về. Quân Pháp ở đấy trốn hết. Ông sợ người Pháp quay lại nên mới sửa sang dinh lũy để chống cự. Lúc ấy quân Pháp giữ chỗ hiểm có quân đến vài vạn người đóng đồn về phương tây, muốn thừa thế xông vào chính giữa lãnh thổ nước Anh, do đường tắt kéo thẳng đến Nữu Ước. Các đất thực dân nước Anh nơi nào cũng bị giặc mà dân binh mộ chưa thành, đồ binh khí thuốc đạn lại không đủ, quân địch nhóm tòan lực về mặt đông tỉnh A Lễ Giai Nê. Ông Hoa Thịnh Đốn định kế muốn chia lấy binh lực giằng co với quân Pháp khiến quân Pháp trở về mặt tây mà quân Anh được nhân dịp sắp đặt binh bị. Ông bàn với quan Đại úy tên là Mã Chi Y. Ông Mã Chi Y mới tự nước Anh sang không biết tình thế, cho ông Hoa Thịnh Đốn như thế là mạo hiểm. Ông Hoa Thịnh Đốn nói: “Nay quân địch đông sức, quân ra không đủ chống lại, thà là đưa quân đến chỗ xa đón đường mà đánh, nếu có thua nữa, nhưng quân địch bị quân ta giàng giữ không sang được phía đông thì các đất thực dân ta nhân đó mà sắp đặt quân gia, mưu ấy thực là vạn toàn lắm”. Nói thế ông mới đem quân tỉnh Vật Nhĩ Cát Nê A [ Virginia ] kéo thẳng lên. Ông Mã Chí Y sợ thua, can ông mãi, ông quát rằng: “Quân mưu đã quyết chớ nên lo”, rồi ông đem quân sĩ lên giữ phía tây. Khi quân địch kéo tràn đến bắn súng đánh rất dữ dội, quân Anh nép lặng không đánh lại mà lén quân phục ngoài ải, khi quân địch tiến lên, ông Hoa Thịnh Đốn đưa quân xông ra đánh, phục binh cũng khởi lên đánh nhau vài giờ, giết giặc rất nhiều, súng đạn bắn thấu vào giữa trận giặc, quân giặc không chống được, đến tối ngày giặc đem quân tháo lui. Khi ấy quan tướng Pháp sai người lại xin hòa, định ước nghỉ đánh trong một năm. Trận ấy quân bộ hạ ông Hoa Thịnh Đốn chỉ chết có 12 người và bị thương có 42 người. Hòa ước đã xong, người Anh mới nhân dịp đó sắp đặt quân gia, cách phòng bị các đất thực dân càng thêm bền chặt. Từ khi ông Hoa Thịnh Đốn cùng tướng nước Pháp nghị hòa với nhau nghỉ quân một năm không đánh; từ đất A Lễ Giai Nê về phía tây nước Anh không đặt đồn trại nữa. Đến khi quân Pháp đã lui, quan trị sự muốn bội ước lại đặt đồn trại ở đất A Lễ Giai Nê, ông Hoa Thịnh Đốn can rằng: “Quân nước mình nhiều người chưa huấn luyện, mà binh khí cũng không đủ, trời đương mùa đông rét, không tiện đi đánh xa, vả lại tờ hòa ước đình chiến một năm, nay mình lại gây việc ra, thế là thất tín với thiên hạ, lẽ không nên làm”. Quan trị sự không nghe lời ông, truất ông xuống làm đại úy, ông bất đắc dĩ mới từ chức. Quân Anh đã đặt đồn trại ở đất A Lễ Giai Nê, người nước Pháp trách rằng trái lời hòa ước, đem quân sang đánh. Quân nước Anh thua luôn, đất thực dân nguy lắm. Quan trị sự bèn viết thư về bản quốc xin thêm quân. Năm 1755, nước Anh sai một tướng đưa hai đội quân sang cứu. Ông tướng cầm quân ấy vốn nghe tiếng ông Hoa Thịnh Đốn, khi sang tới tỉnh Vật Nhĩ Cát Nê A mới nói với quan trị sự phục chức lại cho ông Hoa Thịnh Đốn. Ông mới nói với quan tướng quân rằng: “Nay quân đội ra không nên nhóm lại một nơi, nên chia ra kéo thẳng lên thuộc địa Pháp, nhân lúc quân tiếp cứu Pháp chưa đến ta đánh mà phá thì hơn”. Ông tướng không dùng lời nói, ông đem cả đội kéo lên. Ngày mồng 9 tháng bảy, sáng mai, quân Anh kéo lên cách dinh quân Pháp mười dặm, toan qua sông, gặp quân phục binh Pháp, khi ấy toàn đội binh Anh nhóm lại một nơi, súng giặc bắn mạnh không có chỗ tránh, chết và bị thương hơn 700 người. Quân sĩ đều giận ông tướng ấy không nghe lời nói ông Hoa Thịnh Đốn nên chi phải thua, mới lấy súng bắn ông tướng ấy, ông bị thương bốn ngày rồi chết. Trận ấy ngựa ông Hoa Thịnh Đốn cưỡi cũng bị chết hai con; trên áo trúng phải đạn bốn chỗ, may mà không chết. Trước khi ấy, quân tướng Pháp nghe nước Anh sai quan đại tướng mang quân sang cứu, sợ lắm toan bỏ đồn trốn, có người bộ tướng rằng: “Nay quân Anh nhóm cả đội làm một chỗ mà kéo qua sông nếu ta dùng phục binh nhân lúc qua sông đón mà đánh thì ắt thắng trận”. Quan tướng Pháp theo lời nói ấy mới đánh được quân Anh. Người đất thực dân nước Anh được tin bại trận người nào cũng giận quan tướng Anh không dùng lời ông Hoa Thịnh Đốn mà các quân đội tỉnh Vật Nhĩ Cát Nê A ai cũng khen ông Hoa Thịnh Đốn là người có trí dụng. Quan trị sự bị dư luận bắt buộc phải thăng chức cho ông Hoa Thịnh Đốn. Năm 1756, chính phủ nước Pháp lại sai một ông tướng làm quan tổng đốc, nhân khi quân tướng Anh không có phòng bị, đem quân cướp đánh, tự đất Gia Nã Đại [Canada]kéo xuống, thế rất mạnh, trong một tuần chủ nhật đã kéo đến thành Nữu Ước. Tướng giữ thành ấy không chống lại được, cầu cứu cũng không được, thành mới hãm mất, tướng sĩ Anh bị giết nhiều lắm. Quân Pháp đến đâu được đấy, cướp được lãnh địa lớn gấp hai mươi lãnh địa nước Anh. Quan trị sự mới dùng ông Hoa Thịnh Đốn ra làm tổng đốc để tổ chức quân đội. Quân đội ở đất thực dân đã không có kỷ luật, đều những quân ô hợp, binh khí lại không được tốt, quân lính phần nhiều ngang ngửa không giữ kỷ luật, nhiều khi ra đánh thường hay trốn tránh. Quân Pháp nhân dịp đánh được Anh, bắt bọn thổ phiên theo mình, bảo chúng nó cướp bóc các lãnh thổ Anh. Quân Anh đã phải giữ, quân Pháp đến đánh, không có sức phòng giữ thổ phiên. Ông Hoa Thịnh Đốn nghĩ rằng: Muốn đánh quân giặc thời trước phải sửa sang quân chế, nhưng sợ quan trị sự không cho, mới ước với quan trị sự rằng phải cho ông cái quyền sửa sang sắp đặt quân đội, mà đừng có ngăn trở gì mới được, quan trị sự cũng phải nghe ông, khi ấy ông mới chịu ra nhận chức. Ông đã ra nhận chức mới sửa sang kỷ luật, sắm sửa khí giới, luyện tập quân lính, khi ấy quân lính vẫn quen phóng túng, thấy ông buộc vào kỷ luật, đều không muốn theo hiệu lệnh của ông, ông mới xin với Châu hội phàm quân sĩ ai có trái mệnh lệnh, hoặc bỏ quân ngũ, hoạc làm bạo loạn, thì đều lấy quân pháp mà trị tội. Châu hội cho ông quyền ấy, tự ấy, quân sĩ đều phải theo mệnh lệnh ông cả. Khi ấy có viên đại úy nước Anh tên là Đào Cao Lỗ không muốn theo mệnh lệnh ông, ông mới bắt phạt nặng. Viên đại úy ấy giận lắm, kiện với tổng đốc Anh tên là Tạ Lệ. Ông sợ ông Tạ Lệ không rõ câu chuyện đầu đuôi, mới tới nhà ông Tạ Lệ nói chuyện. Ông Tạ Lệ mừng lắm, truyền lệnh bắt ông đại úy phải theo tiết chế quan tổng đốc đất thực dân (tức là ông Hoa Thịnh Đốn), hễ trái lệnh thì cứ phép trị tội, từ ấy các tướng sĩ đều phải theo mệnh lệnh ông cả. Quân luật đã chỉnh đốn, nhưng lương thực quần áo của quân sĩ đều không đủ, các quân sĩ không bằng lòng, ông mới cùng quân lính đồng chịu khổ sở, khi ăn khi uống, khi nằm khi dậy cũng đồng với quân sĩ, quân sĩ đều cảm phục, xin vì ông hết sức. Chính phủ Anh biết rằng việc giao thiệp với nước Pháp ở đất thực dân không đánh thì không xong, mới tuyển tinh binh và hạm đội sang châu Mỹ , sai Hồ áo Ty làm tổng đốc mà ông Hoa Thịnh Đốn thì cứ cầm quân đất thực dân như cũ. Khi ấy các tướng tá nước Anh mới sang, cùng với quân quan ở thực dân không ưa nhau. ý họ khinh quân đất thực dân không đủ nói việc đánh chác. Tới tháng bảy, tiến quân lên đánh quân Pháp. Ông Hoa Thịnh Đốn xin với Hồ áo Ty tự đem quân đội mình làm tiên phong. Đến đất giặc, giặc ra đón đánh, ông đưa quân đội tỉnh Vật Nhĩ Cất Nê A lên đánh, quân Pháp thua, bỏ thành chạy, ông không đuổi theo, vào thành cắm quốc kỳ lên. Sáng ngày hôm sau, tổng đốc Hồ áo Ty mới đến. Từ ấy tướng hiệu nước Anh không dám khinh quân đội thực dân nữa. Quân Anh chia mấy toán mà tiến đánh đâu được đấy, quân Pháp chỉ còn một thành Khôi Bắc Khắc. Thành ấy kiên lắm, quân Pháp hết sức giữ, quân Anh kéo đến dưới thành, thấy bên tả bên hữu đều là sông, thành đóng ở trên cao, cách mặt nước 200 thước Anh, quân Anh 8000 vây thành đánh mãi không được, mới dùng mưu chước, đêm lại chèo thuyền qua sông, đem quân đến tận dưới thành, tìm chỗ không dốc lắm, vin dây cây mà leo lên, giết hết quân canh cửa Pháp, quân Anh lên được hết cả cùng quân Pháp đánh nhau giữa bình nguyên, quân Pháp phải hàng. Từ ấy toàn cả đất Gia Nã Đại ( Canada ), đều thuộc về nước Anh hết. Anh Pháp hai nước mới ký điều ước hoà bình, không đánh nhau nữa. Trận đánh ấy trước sau đến sáu năm, tốn của hao người không biết là bao nhiêu. Anh đã được Pháp, lấy được lãnh thổ ở Châu Mỹ gấp mười khi trước. Anh Pháp đã thôi đánh, ông Hoa Thịnh Đốn không muốn đương việc binh nữa, mới từ chức về, các tướng hiệu không muốn về. Khi đưa ông , nhiều người vin xe chảy nước mắt. Khi ông 17 tuổi, đã cùng một người con gái tên là La Lan hẹn lời làm vợ chồng, chưa được mấy lâu, nàng ấy chết mất. Ông thương tiếc lắm, đến khi Anh Pháp đánh nhau, ông ra đương việc quân, rồi cũng quên việc ấy đi. Khi cuộc chiến tranh đã xong, ông về nhà quê, mới cùng bà Mã Lỗ Đài kết hôn. Bà ấy là đàn bà goá, đã có một con trai và một con gái, chồng chết, không biết nương tựa vào ai, mới lấy ông. Bà đẹp lắm, mà lại có tài, đã lấy ông đem cả con cái về ở với ông, ở trong gia đình rất là vui vẻ. Ông Hoa Thịnh Đốn xem hai người con ấy cũng như con mình, về sau bà ấy không sinh nữa. Những người sùng bái ông, đều lấy ông không có con làm tiếc, nhưng ông làm người cha dựng nước Mỹ, ngày nay mấy mươi triệu dân Mỹ đều là con yêu của ông cả, còn phàn nàn gì! Phê bình Thời đại nào có anh hùng thời đại nấy, thế giới càng văn minh thời các khoa học vấn càng phát đạt. Từ nay về sau thì những kẻ anh hùng ở thảo dã tất không có nữa. Ông Hoa Thịnh Đốn nhất sinh đi học chẳng qua ở tiểu học đường, chưa có giáo dục cao đẳng, vẻ lại chưa từng học việc quân, chẳng qua đọc sách binh thư của mình và nghiên cứu việc quân ở nhà binh học được một ít mà thôi. Nhưng mà ra làm được quan tướng, đầu đánh được Pháp, sau thì đánh được Anh, làm một người giỏi nhất dựng nên nước Mỹ. Xem thế thời biết khoa học quân sự lúc bấy giờ chưa phát đạt lắm. Bằng ở thế giới ngày nay, học quân sự ngày mỗi thêm tinh, các thức khí giới rất là tinh nhuệ; làm ông tướng ra cầm quân, nếu không có học vấn giỏi, có kinh nghiệm lắm thời không làm nổi; chẳng những làm ông tướng, mà làm một người cai, một người đội cũng không dễ, là bởi cái thời thế đời xưa đời nay khác nhau. Người đời nay đọc chuyện anh hùng thời phải biết làm anh hùng, đời xưa dễ làm anh hùng, đời nay khó. Làm anh hùng đời nay thời học vấn đạo đức việc gì cũng phải giỏi gấp mấy người, mới làm nên công nghiệp; không nên bảo rằng những người anh hùng đời xưa không có học vấn mấy mà cũng thành công mà ta chỉ ngồi đợi cơ hội, bất tất phải dụng công học vậy. Ông Hoa Thịnh Đốn khi ra đương chức, thì người anh chết mà ông cũng bị đau, khi ấy ngoài thì quân giặc, trong thì nạn nhà, mà ông trong thì thờ chị nuôi cháu, ngoài thì sắp đặt việc quân. Việc công việc tư, đều làm trọn vẹn cả. Các bọn thiếu niên ngày nay mượn tiếng yêu nước mà xướng lên những câu “phá hoại” gia tộc, “gia tộc cách mạnh”, không những anh em chú cháu đã không đoái hoài mà cha mẹ cũng xem như người dưng vậy. Than ôi, nước gốc ở nhà, xem hai chữ “nước nhà” thì biết. Người đời nay thường hay nói rằng: “Làm việc thiên hạ thời không đoái hoài đến nhà”, cứ thực ra thì nếu thiệt làm được việc thiên hạ cũng còn có thể nói được, nhưng chẳng thấy làm được việc gì là việc thiên hạ, mà chỉ thấy những không đoái đến nhà, những người ấy chẳng khác gì người điên cuồng vậy. Ông Hoa Thịnh Đốn khi đi qua quan tổng đốc nước Pháp, dọc đường khổ sở nguy hiểm, thực người khác không chịu nổi, mà ông giữ được vô sự mà về, lại dò biết được quân Pháp yếu mạnh, xem xét được tình thế các nơi để lập đồn trại, thực là một người trí dũng kiêm toàn. Đương lúc ở đất thực dân binh bị không đủ, những quân ứng mộ đều là quân ô hợp, lương thực khí giới thiếu thốn, quân Pháp và quân thổ phiên lại thường lén đánh nhau, cảnh tượng như thế làm quan tướng cầm quân rất khó. Khi ông ra làm tổng đốc, trước hết đổi lại quân chế, rồi lại thân minh kỷ luật, cùng với quân sĩ đồng chịu khổ sở, nếu không phải bởi một tấm lòng chí thành đối với quân sĩ, thời cả toàn quân chưa dễ khỏi việc phản loạn trốn tránh, bởi vì lúc ấy dân ở các làng phần nhiều bị quân thổ phiên đánh cướp, nhiều người giân ông, quan trị sự châu ấy lại không dùng mưu kế ông, các tướng sĩ ở Anh mới sang, không giữ pháp luật, lương thực thiếu thốn, quân sĩ đều tỏ ý bất bình, xem thế thì khó khăn biết là đường nào. Đại phàm làm nên một người anh hùng có danh là đều tự chỗ rất khổ sở, rất khó khăn mà ra. Người đời nay muốn làm anh hùng mà không muốn chịu nuốt cay đắng chịu khó khăn, chẳng khác gì muốn đi được trước người mà không chịu gắng bước tới vậy. 4. Vua nước Anh áp chế người đất thực dân Xem những việc biến đổi trong lịch sử, đời nào cũng loạn lâu thì trị, trị lâu thì loạn; đời loạn mở cửa cho đời trị, mà vua dữ dẫn đường cho vua hiền. Nước Hợp chủng châu Mỹ mà độc lập được là nhờ ông Hoa Thịnh Đốn, mà xui nên việc độc lập đó là vua nước Anh là ông Ta Trị. Bởi vì nếu vua Anh không áp chế dân châu Mỹ, thì dân trong mười ba châu nước Mỹ vẫn cứ vui vẻ làm ăn, chưa có tư tưởng độc lập; dân đã không có tư tưởng độc lập, thì tuy có một trăm ông Hoa Thịnh Đốn hô hào vận động thế nào cũng chưa làm nên cho nước Hợp Chủng ở Mỹ mà độc lập được, tạo nhân ra thực tại vua Anh vậy. Hỡi ơi, vua Anh không nên trách người đất thực dân, người đất thực dân mà chống vua là vì vua tự tuyệt; người đất thực dân cũng không nên trách vua Anh, đất thực dân mà độc lập được là cũng vì vua Anh xui nên. Năm 1743, Anh với Pháp đã định hòa ước với nhau ở Ba Lê [Paris]. Đất thực dân của Anh ở Bắc Mỹ, nhiều hơn nước Tây Ban Nha và nước Pháp, ở đại lục Châu Mỹ chốn nào cũng có hiệu cờ nước Anh. Đất thực dân ấy ngày càng thêm rộng, chia ra làm mười ba châu, số dân hơn 200 vạn, ruộng đất tốt, của cải nhiều, thiệt là đất thực dân bực nhất trong thế giới. Trước kia những dân các châu Âu qua ở châu Mỹ, người nào cũng có cái tư tưởng tự do cả, đã đến đất ấy thời chăm việc làm ăn, đều được giàu có, nhưng thường bị quân thổ phiên đánh cướp. Những người ở đất thực dân bị bọn thổ phiên giết hết nhiều lắm mà chính phủ ở bản quốc thì vì xa cách, không hết sức bảo hộ được, bởi thế nên những người ở đất thực dân muốn giữ gìn sinh mệnh tài sản thì phải nhờ tự sức mình. Vì thế, thực dân cùng nhau bề ngoài kết thành đoàn thể, bề trong thì phấn khởi tinh thần, tập luyện mãi, rồi thành tính quen, không có cái tính chất mong nhờ chính phủ nữa, mà cái chủ nghĩa tự do lại càng thêm phát đạt. Xem đó thì biết châu Mỹ đất đai tốt như thế, nhân dân tính thích tự do như thế; thế thì một đường thì chính phủ muốn thu thuế được nhiều, một đường thì thực dân không muốn chịu áp chế, đều là lý thế tất nhiên. Dưới này sẽ kể cái tình trạng chính phủ Anh đãi thực dân. Người nước Anh sang làm thực dân ở châu Mỹ thì vua Anh đều có cái giấy đặc hứa. Trong giấy phép ấy nhận cho những người thực dân có quyền lợi chiếm lấy thổ địa, nhưng chưa từng cho quyền tự trị, cho nên những quan trị sự cùng các quan coi việc ở đất thực dân, đều tự chính phủ Anh sai sang, mà người ở đất thực dân không được dự vào. Những người ấy vốn sẵn có cái tư tưởng tự do, có cái năng lực tự trị mà chính phủ Anh không cho được dự vào quyền chính trị, bắt phải chịu mẫu quốc cai trị, thì họ có lòng bất bình đã lâu, vả chăng đã lâu đời rồi, con cháu những người thực dân ấy không sinh tự mẫu quốc, thời đối với mẫu quốc cái cảm tình lạt đi, ấy là cái nguyên nhân độc lập thứ nhất. Đất thực dân ở châu Mỹ là đất màu mỡ, vật sản rất nhiều, nghề buôn bán dần dần phát đạt. Vua nước Anh đánh thuế rất nặng, mà những tiền thuế ấy đều đưa về nước Anh, ở địa phương thực dân muốn chi dụng việc gì không có mệnh lệnh vua Anh thì không được. Phép luật đặt ra rất nghiêm ngặt, phàm những người môn địa cao, hay là tài sản giàu, thường được thế lực mà bình dân thì không được hưởng cái quyền lợi bình đẳng. Nhân dân trong một xứ, kẻ giàu là số ít, vua Anh đã đánh thuế nặng rồi lại định đưa ra cái giai cấp giàu nghèo xa cách nhau, thì những kẻ bình dân tất nhiều kẻ oán; phần nhiều đã oán mẫu quốc thì những người số ít nếu bênh mẫu quốc, cũng không chống lại, ấy là cái nguyên nhân độc lập thứ hai. ở đất thực dân không có giáo dục cao đẳng, chỉ có trường học phổ thông, những người ở đất thực dân xin lập thì quan trị sự không cho, là sợ những người ở đất thực dân có học vấn, có trí thức thì tương lai chúng nó có khi độc lập, mà không chịu áp chế, cho nên chính phủ Anh đối với đất thực dân chỉ dùng cái chính sách ngu dân. Bởi thế nên dân ở đất thực dân càng thêm oán giận; ấy là cái nguyên nhân độc lập thứ ba. Từ khi Anh Pháp đánh nhau, tài sản những người ở đất thực dân bị quân Pháp với quân thổ phiên cướp mất nhiều. Hòa ước đã thành, những người ở đất thực dân muốn chấn khởi công nghiệp để khôi phục lại. Quan trị sự ngăn cấm, mà đánh thuế càng thêm nặng, các nghề chế tạo đều hạn chế không được làm nhiều. Lại định luật vượt biên, cấm người thực dân không được chở các đồ vật phẩm ra ngoài, những vật sản ở đất thực dân chỉ cho chở bán sang nước Anh, không được chở đi nước khác, lại bảo rằng: “Việc Anh, Pháp đánh nhau, nước Anh vì bảo hộ quyền lợi của đất thực dân mà hao tổn hết nhiều lắm, nay phải lấy lại ở đất thực dân”; bởi thế nên năm nào cũng tăng thuế mãi. ở đất thực dân cái của thiên nhiên sinh sản đã nhiều, mà sau cuộc chiến tranh, nhân dân lại hết sức làm lụng, thời hóa vật ắt nhiều; hóa vật nhiều mà không bán ra ngoại quốc được thì những người buôn bán nước Anh, được cầm quyền lợi mà người ở thực dân thời khốn đốn; ấy là nguyên nhân độc lập thứ tư. Trước khi ấy những dân thành thị ở các châu đất Mỹ, vì chính phủ mẫu quốc không cho dự vào việc chính ở các địa phương, mới cùng nhau họp lại lập ra hội, lấy chủ nghĩa đồng nhất bình đẳng mà bàn bạc các việc ở địa phương. Từ khi hội ấy đã đặt ra, thời cái tinh thần tự do cộng hòa càng thêm phát đạt, ở các thị, các quận đều cử đại biểu, tổ chức châu hội; châu nào cũng có châu hội cả. Khi ấy ông Hoa Thịnh Đốn cũng làm đại biểu một quận, được dự vào hội nghị châu Vật Nhĩ Cát Nê A. Chính phủ đánh thuế ở đất thực dân nặng quá, người đất thực dân giận lắm, bảo rằng: “Lấy của đất thực dân, sửa sang việc đất thực dân, thì chính phủ mẫu quốc nên cho đất thực dân được quyền độc lập tự trị; không nên xem như nước thuộc, nếu xem như nước thuộc thì những binh khí đánh nhau mấy năm trước mẫu quốc phải chịu, không nên bắt người thực dân chịu”. Khi ấy trong các đại biểu có người tên là Hiển Lý vốn là người giỏi ăn nói, diễn thuyết ở hội rằng: “Nghị viện nước Anh không có quyền được gia thuế cho đất thực dân”, rồi ông lại nói những điều vua Anh bạo ngược; trong châu hội mấy nghìn người nghe ông Hiển Lý diễn thuyết, người nào cũng hăm hở độc lập, nhưng chính phủ Anh còn chưa biết, lại hạ lệnh đánh thuế tem hoa; phàm hóa vật gì cũng phải gián tem hoa, nếu không thời cho là của gian, bắt thâu vào quan. Lệnh ấy ra, người thực dân lại càng thêm giận, ước cùng nhau nhất định không chịu. Quan Trị sự không biết, còn hạ lệnh cho dân, định ngày thực hành cái thuế tem hoa. Đến kỳ ấy, ông Hiển Lý lại hội dân trong châu lại, đánh chuông rầm lên, ông hăm hở diễn thuyết, những người nghe đều cảm động, người nào cũng muốn độc lập. Chính phủ Anh nghe nói người đất thực dân không chịu thuế ấy, bèn thôi đi, mà lại đánh thêm thuế chè và thuế pha lê, đặt sở thu thuế ở phủ Ba Sĩ Đốn [Boston]; người đất thực dân không chịu. Khi ấy có ba chiếc tàu Anh chở chè từ nước Anh sang châu Mỹ, tàu đỗ trong sông, dân rủ nhau đêm đến đánh cướp, lấy chè quăng xuống bể cả. Chính phủ Anh nghe việc ấy, giận lắm, mới mưu đem binh hỏi tội người thực dân, sai tướng quân tên là Nghê Chỉ đưa quân đánh vào phủ Ba Sĩ Đốn, giết càn người thực dân đi. Khi ấy toàn cả các xứ thực dân đều nổi lên, các người chí sĩ trong 13 châu, hội lại một nơi, công cử các người đại biểu bàn việc nước. Châu Vật Nhĩ Cát Nê A cử đại biểu bảy người, ông Hoa Thịnh Đốn cũng vào trong số bảy người ấy. Ông Hoa Thịnh Đốn từ khi lấy vợ tới nay, đã mười lăm năm, ông từng làm nghị viên trong châu, lại từng làm đại biểu các quận, thường khi ở trong châu hội thì ông ít nói, nhưng cái sức phán đoán của ông rất giỏi, cho nên ông có thế lực lắm, những người giỏi như Hiển Lý cũng phải phục ông. Khi ấy ông ra làm nghị trưởng trong quận, ông nghĩ rằng chính phủ nước Anh áp chế đất thực dân như thế là vô lý quá, thế nào cũng phải chống lại, mới xướng ra việc độc lập, đem việc ấy tuyên cáo với công chúng. Người trong châu hội ai cũng biểu đồng tình, lại tuyển đại biểu bảy người qua đất thực dân Phi Lặc Đặc Phi Nhi [Philadelphia] hội bàn. Các người đại biểu tới đó hơn 50 người, cử ông Ty Thang làm nghị trưởng mà quyết nghị rằng: “Chính phủ nước Anh mà muốn lấy binh lực bách hiếp chúng ta, thời toàn thể người thực dân chúng ta phải hết sức mà chống, nếu dân trong châu mà nơi nào bị chính phủ bách hiếp, thì nên bảo hộ nhau, người các đất thực dân chúng ta nên lấy cái lòng kiên đoán quả quyết, mà quyết nghị việc độc lập, nếu có người nào sợ chính phủ Anh, theo pháp lệnh Anh mà miệt thị đồng minh chúng ta, thời toàn thực dân chúng ta nên trị những bọn ấy”. Sau khi đã quyết nghị rồi, một mặt thì đưa thư sang Gia Nã Đại nói chính phủ Anh bạo ngược để tỏ tình với dư luận nước Anh; một mặt thì sai người sang nước Anh, đưa thư cho vua nước Anh, xin vua nghĩ lại. Khi ấy ông Hoa Thịnh Đốn bị quân nghĩa dũng cử ra làm sĩ quan quân bộ binh, phàm những quân sĩ trong đội quân nghĩa dũng đều thuộc về ông giám đốc luyện tập cả. Vua Anh nghe người thực dân khởi binh, lấy làm giận, mới tuyển quân tinh binh, khiến Nghê Chỉ kéo đóng ở phủ Ba Sĩ Đốn. Tháng ba năm ấy, ở đất Vật Nhĩ Cát Nê A lại khai hội lần nữa, ông Hiển Lý lại ra diễn thuyết, ai cũng hăm hở mà tức giận vua Anh lắm, bèn quyết nghị nhất định độc lập. Phê bình Đại phàm đọc sách sử, tất phải có con mắt rất sáng, cái học thức rất tinh, muốn biết việc hiện tại, trước phải xem việc đã qua, đó là điều cốt yếu nhất. Việc nước Mỹ độc lập, cái nguyên nhân rất xa rất lớn, thì tại ở giống người. Người thực dân ở châu Mỹ là nguyên người nước Anh là giống người áng Cách Lộ Tan Tốn [Anglo-Saxon], cái phẩm cách giống người ấy không phải như các giống người khác; mà nước Anh là nước sản xuất hiến pháp. Những người nước Anh sang ở châu Mỹ, phần nhiều vì trọng khế ước, yêu tự do mà sang, cho nên khi mới sang Mỹ trong một chiếc tàu 102 người, đã cùng nhau kết cái khế ước để giữ chung với nhau. Vả lại, những người thực dân ấy phần nhiều là người theo giáo Cơ Đốc, cái tư tưởng chính trị gốc ở tôn giáo mà ra, cho nên muốn biết cái nguyên nhân nước Mỹ độc lập, thì trước hết lấy giống người làm đoạn thứ nhất, tôn giáo làm đoạn thứ hai, tình hình đất thực dân làm đoạn thứ ba, ngược chính của vua Anh làm đoạn thứ tư, cứ từng đoạn mà xem thì biết được cái nguyên nhân nước Mỹ độc lập. Đó là phương pháp đọc sách, độc giả phải biết. Việc trong thiên hạ, mà hư hỏng thường thường chỉ tại trong tay một vài người; cái tình hình ở đất thực dân như thế, chính phủ vẫn chưa được rõ, nếu các quan trị sự ở đất thực dân biết nhân tâm biết thời thế đừng làm ức áp quá, nói với chính phủ sửa lại pháp luật mà làm một cái chước lung lạc khác, thời người đất thực dân không có bụng giận mà việc chiến tranh, việc độc lập không phát hiện ra được. Vì Trị sự không để ý đến, cứ tưởng rằng chính phủ đè ép được dân; thực dân thì chỉ oán vua mà không biết rằng tai mắt vua ở nơi trị sự. Thế trời làm cho vua nước Anh mất vạn dặm đất thực dân, mất mấy trăm vạn dân thực dân, thực là lỗi tại các quan trị sự. Cho nên chúng ta mà muốn ra ứng việc đời ắt phải xem suốt thời cục, xét kỹ tình hình, cho biết đại thế xu hướng về đâu, không nên dùng ý khí mình, cậy sức mạnh mình, thì khỏi đến làm hư việc thiên hạ vậy. 5. Nước Mỹ độc lập đánh cùng nước Anh Đất thực dân đã tuyên cáo độc lập, quyết nghị đánh với nước Anh. Lúc ấy tướng nước Anh là Nghê Chỉ đóng ở phủ Ba Sĩ Đốn [Boston] , biết người thực dân đã sắp sẵn việc đánh, mới đem quân đến đánh trước. Người thực dân hết sức chống cự, nhưng quân ít không chống lại, khí giới lương thực quân độc lập bị mất hết, và chết bảy người, đó là tháng 4 năm 1775. Quân Anh tự phủ Ba Sĩ Đốn kéo lên lấy tỉnh Khang Khoa Đức, quân độc lập đón đánh không được đã toan lui, nhân được quân tiếp cứu, lại tiến đánh, quân Anh thấy quân độc lập kéo đến đông, liền kéo lui về phủ Ba Sĩ Đốn, quân độc lập đánh úp giết được 300 người. Việc ấy truyền báo khắp cả toàn đất thực dân, người nào cũng hăm hở, người đi cày thì bỏ cày bừa, người làm thợ thì đóng cửa công xưởng, nào già, nào trẻ đều vác binh khí ra ứng mộ đi lính. Vợ thì buộc gươm lên lưng chồng, mẹ thì sai con đi trận. Có bà già nghe nói việc độc lập, cho hai người con đi lính, lấy cái súng bắn chim, và lấy ống khoá chì đúc làm đạn, đưa cho con đầu; còn con thứ hai mới 16 tuổi, không có binh khí, trong hai nhà chỉ có một cây gươm cùn, bà quẹt nước mắt mà đưa cho con, bảo con rằng: “Con hãy tạm lấy cái gươm cùn này mà đi, rồi sau ra con lại kiếm cái khác cho tốt, hay là đợi khi nào đánh giặc có đứa nào bỏ súng chạy, thời con lấy súng nó mà bắn”. Lại có một người làng cày, có một đứa con trai chưa đến 15 tuổi cũng cho đi lính, khi quân đội kéo đi qua trước cửa, người làng cày trông thấy con, gọi con mà bảo rằng : “Mày ra làm lính phải gắng sức, nếu không thế thì cha cũng không muốn trông thấy mặt mày nữa”. Nhân dân các thực dân hăm hở lắm, đưa đón nhau, khuyên bảo nhau như thế cho nên ở ngoài thành Ba Sĩ Đốn quân độc lập không hẹn trước mà đến; đến hơn hai vạn người. Đất thực dân đã tuyên cáo độc lập, người trong 13 châu không ai phụng lệnh quan trị sự nữa. Quan trị sự sợ quá, thoát thân trốn chạy. Các ông nghị viên ở các châu mở đại hội quyết nghị từ nay về sau quyết liệu tính mệnh để cầu tự do độc lập. Quan tướng giỏi của quân đội độc lập là áo Liên đem quân lên đánh đồn quân Anh. Đồn ấy đóng ở trên bờ hồ Tà Bổ Liên. Ông áo Liên lập mưu nhân lúc ban đêm chèo thuyền qua hồ đến dưới đồn, quân thủ binh Anh kinh sợ, bỏ đồn chạy. Quân độc lập lấy được súng ống thuốc đạn nhiều lắm, bắt được quân Anh mấy trăm người mà dân binh chẳng chết người nào. Cách được mấy ngày, lại đánh lấy được tỉnh Khổ Lạp Văn. ý bọn thực dân khi đầu khởi lên là cốt để chống cự các việc nước Anh áp chế, để giữ gìn việc trị an ở châu Mỹ, nguyên không có ý chiếm giữ lấy thổ địa. Khi đã được Anh mấy trận, thì chắc thế nào Anh cũng không chịu định hoà ước, cho nên lại mở kỳ hội nghị thứ hai mộ thêm dân binh, chỉnh đốn quân sự, đề phòng bị đánh lần nữa. Lại cử một người làm sứ giả vượt bể qua nước Anh, dâng thư cho vua Anh, kể sự tình đầu đuôi. Khi ấy ông Hoa Thịn Đốn làm đầu uỷ viên, sắp đặt mọi việc, đợi sứ giả về xem thế nào. Bởi vì các ông nghị viên các châu đều nghĩ rằng nước Anh tuy là bạo ngược, nhưng nếu các thực dân mà phân ly mẫu quốc ra, thời cái tình chưa đặng. Đến khi sứ giả ở Anh về nói rằng người Anh không chịu hoà vì muốn giết cho hết các người đất thực dân. Quả nhiên được ít lâu, Anh lại đưa thêm quân đội và hạm đội, kéo sang phủ Ba Sĩ Đốn. Khi ấy đất thực dân mới nhất định việc đánh, hội lại định cử người làm quan tổng đốc quân thực dân, chúng đều cử ông Hoa Thịnh Đốn. Ông nghị trưởng mới truyền mệnh cho ông Hoa Thịnh Đốn làm Tổng đốc, ông từ chối hai ba lần, châu hội không cho, ông bất đắc dĩ mới nhận chức. Ông diễn thuyết ở châu hội rằng: “Nay các ngài cử tôi làm Tổng đốc, tôi xin cảm tạ anh em đồng bào cho tôi cái vinh quang rất lớn, nhưng tôi nghĩ đến cái trách nhiệm ấy là rất trọng đại, đối với cái tài lực của tôi và cái học thức về binh của tôi thì tôi lấy làm thẹn lắm. Thế mà hồi này nhà nước gặp phải hồi nguy cấp, quốc hội đã tin tôi, uỷ cho tôi cái trách nhiệm trọng đại ấy, thời tôi quyết mòn xương nát thịt làm cho hết cái nghĩa vụ của tôi”. Ông đã ra làm chức Tổng đốc, kéo quân tới phủ Ba Sĩ Đốn [ Boston]. Trước khi ấy quân Anh muốn lấy Ba Sĩ Đốn, lo mưu trước giữ núi Thương Khâu. Thương Khâu là chỗ hiểm yếu nhất trong phủ Ba Sĩ Đốn, cao 110 thước Anh; cách đó lại có núi Bố Lý Đặc cao hơn núi Thương Khâu 62 thước, quân Anh nếu giữ được chỗ ấy thời có thể dòm xuống được phủ Ba Sĩ Đốn. Quân độc lập mới sai 100 người, nhân đêm kéo quân giữ đỉnh núi. Sáng ngày quân Anh đến đánh, quân độc lập ít quá không thể chống được, mới nấp lặng, đợi quân Anh đến tận nơi, mới phát súng bắn, quân Anh chết hết nhiều, nhưng lại cứ kéo thêm lên đánh mãi. Quân độc lập thuốc đạn hết cả mới cùng nhau cầm gươm tay xông xuống mà bỏ chạy, quân Anh mới lấy được phủ Ba Sĩ Đốn, đến khi quân ông Hoa Thịnh Đốn kéo đến thời không kịp nữa. Người trong 13 châu, nghe ông Hoa Thịnh Đốn ra làm Tổng đốc đều mừng rằng: “Năm xưa hồi Anh Pháp đánh nhau, ông đã từng làm tướng, đánh được giặc, lập được công, nay ra làm Tổng đốc thời tất làm nổi công việc”. Bởi thế nên người ứng mộ theo ông rất đông. Nhưng toàn quân mới mộ mà binh khí lại không đủ, lấy quân ấy mà đánh với Anh thời chẳng khác gì đem dê đấu với hổ. Ông Hoa Thịnh Đốn nghĩ rằng: “Muốn sắp đặt việc quân thì trước phải luyện tập quân mới mộ; mà muốn luyện tập quân mới mộ, thì phải có lương thực cho nhiều người mới được. Nay ở đất thực dân chính thể không thống nhất, hiệu lệnh không khắp được các nơi xa, những người ứng mộ đó chẳng qua nhân cái chí khí hăng hái trong một chốc, đem mình ra đi, đến khi thấy làm lính khổ sở thì lại có cái ý thấy khó, mà muốn tháo lui, như thế là thường”. Ông mới viết thư cho hội nghị rằng; “Tôi nay ở cái địa vị này rất là khó, tôi xin tỏ cái lòng khổ thống của tôi cho các ông biết. Nay các việc huấn luyện quân sĩ đã khó ra tay, mà trăm việc lại càng thiếu thốn; quân mới mộ chưa tập đánh trận, thời bây giờ còn phải lo luyện tập, chứ đã cho đánh được đâu; thế mà quân giặc đến đánh thì thế nào cũng phải phòng giữ, phòng giữ không được thì cũng phải ra đánh, cho nên tôi bất đắc dĩ phải giả bộ mạnh mặt ngoài, mà dấu cái nhược điểm bề trong, để loè cho giặc chẳng dám khinh mình, mà quốc dân ta cũng đừng non dạ”. Sau khi quân gia đã sắp đặt, ông Hoa Thịnh Đốn mới mưu đánh quân Anh ở Ba Sĩ Đốn, và tàu binh đóng ở trong cửa bể. Trước hết đem quân chiếm lĩnh một cái đảo nhỏ ở trong cửa bể Ba Sĩ Đốn. Đảo ấy cũng hiểm trở như núi Thương Khâu, cách phủ 1000 thước. ở phía sau dòm xuống thời trông thấy cả toàn phủ Ba Sĩ Đốn. Quân Anh lén đánh không được, mới lấy tàu binh đem quân đêm đến để đánh lấy đảo ấy, vừa gặp lúc gió bể thổi mạnh, thuyền quân Anh không qua được, mà quân ông Hoa Thịnh Đốn cũng phòng bị nghiêm ngặt không thể đánh được, quân Anh bất đắc dĩ mới kéo lui ra ngoài phần đất phủ Ba Sĩ Đốn. ấy là việc ngày 21 tháng ba năm 1776. Đời sau xưng là trận thắng Ba Sĩ Đốn. Quân Anh đã lui, ông mới chia quân giữ phủ Ba Sĩ Đốn mà đem một đội quân kéo sang Nữu ước. Khi ấy có một tướng Anh đem một hạm đội chở súng đại bác 50 khẩu và tinh binh 3000, muốn đánh lấy miền nam. Quân thủ binh miền nam đón đánh, quân Anh lại thua, quan Đề đốc thuỷ sư Anh trốn chạy. Khi ấy dân khí ở miền nam nhân đó thêm hăng hái lên. Quân Anh đã bị thua hai ba lần, lòng quân nhụt hết. Viên Tổng binh Anh mới cùng ông Hoa Thịnh Đốn ước hoà. Ông xem cái tờ công văn của Tổng binh Anh nhiều lời ngạo, ông không chịu hòa. Dân ở các nơi được tin phủ Ba Sĩ Đốn và miền nam đánh được quân Anh, ý khí càng hăm hở. Ngày 2 tháng 7, mở nghị hội đưa bàn cái vấn đề đất thực dân độc lập quyết nghị rằng: “Liên bang đất thực dân ta đã được tự do độc lập, thời phải có quyền tự do độc lập. Nay dân chúng ta đối với vua nước Anh, không nhận cái nghĩa vụ trung thành nữa. Vì chúng ta với nước Anh về mặt chính trị không có tơ tóc nào quan hệ nữa”. Các ông nghị viên lại đem cái đại ý hội nghị ấy mà bố cáo với toàn quốc rằng ; “Cái vấn đề lớn nhất ở châu Mỹ ta tự xưa chưa có, nay đã quyết nghị rồi. Từ nay về sau tưởng không có việc gì vui bằng vấn đề ấy”. Khi ấy liên bang đất thực dân mới tuyên cáo độc lập, phát biểu cái hiệu “A Mỹ Lợi Gia Hợp Chủng Quốc” [ United States of America] ra thế giới. Nghị hội lại chọn người uỷ viên thảo thư độc lập tuyên bố ra các đất thực dân và đem cho các nước châu Âu. Ông uỷ viên khởi thảo thư ấy là Triết Phi Tôn [Jefferson] . Cái thư ấy gọi là: “Thư tuyên ngôn độc lập của Nghị hội nước Hợp chủng á Mỹ Lợi Gia”. Chương đầu nói nước Mỹ cùng nước Anh phân ly là cái thế tự nhiên. Thứ hai thì nói chính phủ Anh không đủ trông cậy cùng cái mục đích chính trị của vua Anh sai lầm, kể các điều tội ác của vua Anh, và nói sở dĩ cùng mẫu quốc phân ly là bất đắc dĩ. Sau hết thì tỏ với thế giới rằng các nghị sĩ nước Hợp chủng á Mỹ Lợi Gia cùng nhóm lại là vì chính nghĩa công đạo mà kêu với xã hội công minh làm quan thẩm phán, thay mặt toàn dân đất thực dân làm lời tuyên ngôn độc lập nước Liên bang đất thực dân. Lại tuyên ngôn từ rày đối với vua Anh không có chút gì là nghĩa vụ trung thành nữa, từ rày không quan hệ gì đến chính trị nước Anh nữa. Lại tuyên ngôn nước Liên bang từ rày thành một nước tự do độc lập, đã có lời đồng minh kết ước với nhau về việc chiến tranh từ đầu đến cuối. Nhân dân đất thực dân nhờ đức Thượng đế phù hộ đã thề đem hết sinh mạng cùng hạnh phúc danh dự để duy trì lời tuyên ngôn này. Sau thư ký tên viên Nghị trưởng cùng viên Thư ký, ngày 4 tháng 4 năm 1776, ban phát khắp các châu. Đến đâu nhân dân đều xúm lại tranh nhau xem đọc. ở Nữu Ước nguyên có cái tượng đồng vua Anh, khi nhân dân đã đọc cái thư tuyên ngôn ấy, thời cái tư tưởng tự do độc lập càng sôi nổi trong óc, mới rủ nhau đạp đổ tượng đồng vua Anh. ở phủ Ba Sĩ Đốn [Boston] các nhân dân nhóm lại đông lắm, xem thư tuyên ngôn ấy, vừa đọc vừa nhảy vừa reo, reo rồi lại khóc. Quan tướng Anh thấy tờ tuyên ngôn độc lập ấy, lấy làm giận quá, xin với chính phủ Anh đem đại quân và các hạm đội sang, lo mưu đánh lấy Nữu ước. Ông Hoa Thịnh Đốn biết trước, mới lấy các đồ thuyền nát ném xuống ở các cửa bể, để cho tàu Anh không vào được. Lại đem 9000 quân cùng với ông tướng quân là Khổ Lâm giữ các chỗ hiểm trở. Đối mặt thành Nữu ước có chỗ đất gọi là Bố Lỗ Khắc Lâm, phía tả và phía hữu đều sông cả, quân Anh muốn đánh Nữu ước thì phải đi qua chỗ ấy. Ông Khổ Lâm đem quân giữ đấy, lại đóng đồn ở dưới chân núi về phía hữu phòng bị rất kỹ. Quân Anh 3 vạn người chia mấy đạo kéo lên đất, lại đưa thuyền phá huỷ những đồ lấp cửa bể của ông Hoa Thịnh Đốn, toan đưa đại pháo đánh phía hữu. Đất Bố Lỗ Khắc Lâm có 3 nẻo: Một nẻo đi trước núi, hai nẻo đi quanh bên tả và bên hữu núi, ông Khổ Lâm sai quân giữ chỗ ấy rất vững. Chẳng may ông Khổ Lâm bị đau, ông Sa Lý thay cầm quân ông chỉ giữ kỹ nẻo đường bên hữu và nẻo đường giữa, nẻo đường bên tả thì phòng giữ qua loa mà thôi. Quân Anh dò biết, giả đem quân đánh riết nẻo đường giữa và nẻo đường bên hữu, mà lén để quân mạnh do nẻo đường bên tả kéo vào, các tướng giữ đất không biết mưu ấy, cứ hết sức giữ phía trước mà không ngờ con đường phía tả đã bị quân Anh chiếm lấy, đến khi biết thì đã không kịp nữa, phải bỏ chạy. Quân Anh kéo đến sau lưng đồn cùng phía trước hai đường đánh ép lại. Lại sai một đạo quân vây Bố Lỗ Khắc Lâm. Quân độc lập chết hết nhiều lắm. Trận ấy quân độc lập chỉ có 9000 người mà trong 4 phần lại có một phần có khí giới tốt, mà địch với tinh binh Anh 30.000, thì cái thế bên nhiều bên ít, bên yếu bên mạnh đã khác nhau, mà ông Sa Lý lại không có cơ mưu, thế thì bị thua là phải. Khi ấy ông Hoa Thịnh Đốn từ Nữu Ước đến trông thấy hai bên còn đánh nhau ở Bố Lỗ Khắc Lâm, đang kinh hãi, không biết tính sao, lại trông thấy quân ở trong thành khí giới không đủ mà quân giặc thì đã áp tận dưới thành. Tân binh Anh ở Bắc Hà lại xổ đại pháo bắn sang, thế không chống lại được, mới quyết kế bỏ Lỗ Khắc Lâm, lui về giữ Nữu Ước. Tối ngày 28, nhân khi mưa to, đem lén quân lui. Đường sá bùn lầy, ông Hoa Thịnh Đốn sai quân sĩ vận chở khí giới súng ống lương thực mà lui dần dần, chẳng bỏ mất chút nào cả. Sớm ngày 29, cả toàn quân qua sông Đông Hà. Khi ấy quân Anh mạnh lắm, quân độc lập đã không luyện tập và lại mới thua thế mà ông đem một món quân tàn binh rút đi qua trước quân mạnh và trước đội tàu binh mà yên toàn, chẳng có việc gì, nếu không phải là một nhà binh học giỏi nhất, thời sao có cái can đảm trí thức ấy. Khi đem quân lui đó, ông đến nỗi mấy ngày đêm không ngủ, thường cỡi trên lưng ngựa để phòng bị quân giặc. Trước khi đánh trận Ba Sĩ Đốn, quân Anh bị thua thì có ý sợ, nay nhân đánh được muốn thừa cơ bàn hoà, quan đề đốc thủy sư Anh mới sai người sang ước hoà. Nghị hội đất thực dân cũng sai 3 người hiệp bàn ngay. Anh cố chấp muốn lấy đất thực dân làm thuộc quốc, không cho độc lập, hội nghị không chịu, cho nên hoà nghị lại không xong, nhưng cửa bể Nữu ước, các tỉnh Luân Cổ Ai Lan đều bị quân Anh chiếm giữ hết. Quân Anh ở bản quốc sang gọi rằng 10 vạn mà lại có hạm đội cứng mạnh đóng giữ các cửa sông cửa bể; quân thực dân thì chỉ có 2 vạn; quân địch đánh chỗ nào thường nhóm quân lại đông lắm, quân thực dân đã ít mà lại phải chia giữ các chỗ, thì binh lực càng yếu. Vả lại, quân Anh luyện tập giỏi, lương thực nhiều, khí giới tốt, mà quân thực dân phần nhiều là quân mới mộ, đã đủ hạn ở lính thì cùng nhau bỏ về. Từ sau trận thua ở Bổ Lỗ Khắc Lâm, quân thực dân sợ quân Anh như thiên thần, trông thấy thì bỏ chạy, ngày nào cũng có người trốn lính, không thể cấm được. Những việc khó khăn so lúc Anh Pháp đánh nhau lại khó gấp mười. Nhưng ông Hoa Thịnh Đốn đương cái cảnh ngộ ấy, mà ông không sợ thua, không từ khó nhọc, không trách tiếng chê cười, không quản khuất nhục, không chịu thất vọng, không chịu ngã lòng, gắng sức chống cự, trong mấy năm làm thành được cái công nghiệp độc lập, cái tính nhẫn nại như thế thực là xưa nay không ai có. Nay hãy xem cái lịch sử thất bại của ông sau này. Khi quân Anh đóng ở tỉnh Luân Cổ Ai Lan, quân thực dân đóng ở Nữu ước, cách sông Đông Hà mà bày trận. Nữu ước ở gần đất Luân Cổ Ai Lan, về mặt bắc có sông Bắc Hà, sông ấy rộng hai dặm, là chỗ hiểm yếu của quân thực dân, quân Anh chiếm giữ chặng giữa, cho nên quân thực dân không được tự do hành động. Tướng Anh đem 4000 quân qua sông Đông Hà sang đánh Nữu ước, đóng trên gò cao, cách phía Đông bắc phủ Nữu ước 5 dặm. Quân thực dân bị tàu chiến quân Anh đánh, sức không chống được, phải kéo lui. Quân Anh ở Bố Lỗ Khắc Lâm đều kéo sang dần dần, sấn vào Nữu ước, quân thực dân mới bỏ phủ Nữu ước, ra ngoài 9 dặm bày trận. Quân Anh bèn kéo vào phủ Nữu ước. Đến ngày 16 tháng 9 năm 1776, hai bên đánh nhau, quân thực dân cố sức chống lại, ông Hoa Thịnh Đốn muốn liều chết giữ thành Nữu Ước. Có người bộ tướng can rằng: “Đất Nữu Ước là nơi tuyệt địa không thể giữ được”. Ông mới đem quân lui, cả đoàn đội quân ông chỉ có 17.000 người, ông đã kéo lui, quân Anh theo sau đánh, ông chia quân ra làm hai đội, tả dực và hữu dực , giữ chỗ cao, đánh hồi lâu, quân hữu dực thua, còn tả dực cách quân Anh xa chưa kịp đánh. Được ba ngày, quân Anh có viện bình mới đến. Ông nghe quân Anh nhóm đông, tự biết trận địa của mình chẳng lợi, lại lui quân chỗ khác. Quân Anh lại đến đánh hai chỗ pháo đài của quân thực dân, hai chỗ ấy đều mất. Quan thủ tướng giữ đó là Khổ Lâm bỏ chạy với quân ông Hoa Thịnh Đốn. Ông Hoa Thịnh Đốn mới chia cho ông ta bảy nghìn quân để giữ chỗ hiểm yếu, mà ông thì đem quân lui về phía Tây. Lúc bấy giờ quân Anh đánh đâu được đấy, đã lấy được tỉnh Luân Cổ Ai Lan và Nữu Ước và hai chỗ pháo luỹ, quân thực dân cứ lui mãi, không còn chút hăng hái nào nữa, chỉ bó tay lại để cho quân địch muốn làm gì thì làm. Vừa lại gặp lúc quân lính hết hạn, đem nhau bỏ về hết, quân ông Hoa Thịnh Đốn chỉ còn 3000 người mà đồ binh khí lại hư hỏng hết, áo mặc và các đồ dùng thiếu thốn hết. Quân Anh đuổi theo rất kíp, ông bất đắc dĩ phải đem quân lui mãi. Khi ông lui quân theo dọc bờ sông mà đi, thấy trong sông có chiếc thuyền nào thì đưa nhóm lại một chỗ, nhờ thế quân pháo thủ và đồ chở nặng mới qua sông được. Lại vừa được quân viện binh tiếp đến, nhưng quân ông khi ấy cũng chưa được 5000 nghìn, quân Anh theo đến nơi có một người tì tướng chạy thoát không được bị quân Anh bắt, quân ông càng thêm nhụt, tướng sĩ nhiều người tự sát. Trước khi ông bỏ Nữu Ước, lui quân dần dần, người các châu nghe tin lấy làm sợ lắm, mộ binh không ai ứng cả. Người Anh thừa cơ chiêu dỗ ở đất thực dân, các người giàu lại lo toan theo về Anh, chỉ những người trung lưu trở xuống còn có bụng độc lập, muốn cho dân binh đánh được mà thôi. Đương lúc ấy, ngoài thời quân địch theo đánh, trong thời tướng sĩ rã rời, những quân lính đi theo đó lại thường muốn trốn tránh, thiệt là nhiều việc đáng lo, nhưng ông vẫn nói cười như thường, không lộ ra đáng lo buồn chút nào cả, quân lính thấy vậy cũng yên tâm. Ông nghĩ rằng: quân đội của mình tổ chức không được hoàn toàn thì không thể đánh được, mới viết thư cho Nghị hội xin tính số dân các châu ra mà bắt lính, kỳ hạn đi lính thì phải ba năm, lại sửa lại quân luật, phàm những người ứng mộ ấy không được tự do bỏ đội mà về ; lại xin bảo Nghị hội sai người sang Âu châu cầu cứu với các nước. Nghị hội theo lời ông, sai ông Phú Lan Khắc Lâm[Franklin ] làm uỷ viên sang trần thuyết với các nước châu Âu , nhất diện thời điều tra số dân cả toàn đất thực dân để theo đó mà hạ lệnh trưng binh: tất cả được 78 đại đội. Ông Hoa Thịnh Đốn nghĩ rằng tuy đã có lệnh trưng binh, nhưng binh cũng chưa lập tức tụ tập được, nếu không đánh được một trận thì không cổ vũ được nhân tâm và phấn phát được quân khí. Khi ấy quân Anh ba vạn theo đánh, toan qua sông mà không có thuyền, tạm bày trận ở trên bờ sông. Ông mới nhân lúc quân Anh còn đương rải rác, lập mưu lén đánh. Ông chia quân ra làm ba toán, ông tự đem toán trung quân, sai hai tướng nữa đem hai toán, đêm lén qua sông chia 3 đường kéo kên. Trời chưa sáng, quân đã qua sông hết, đột vào đánh quân Anh. Quân Anh đang lúc chẳng ngờ bị quân ông đánh, không chống lại được, mới tan chạy. Từ ấy quân Anh không dám lo toan qua sông nữa. Nghị hội nghe tin ấy, mừng lắm mới kíp sai một toán quân 16 liên đội đến tiếp với quân ông. Trước ấy tướng Anh là Hạp Căn đem quân tinh binh từ Gia Nã Đại kéo lên, đánh đâu được đấy, liền hãm được mấy đồn, quân thực dân chống giữ đã gần hết sức, sau nhờ có quân viện binh, lại cố sức đánh, đuổi được quân Anh. Cách mấy ngày quân Anh lại đến đánh, tướng quân thực dân là Tư Tha Khắc hăm hở thề rằng: “Tôi không đánh được giặc thì không mặt mũi nào lại trông thấy đồng bào trong 13 châu nữa”. Nói xong mới liều chết đem quân xông vào, quả đánh được giặc, lấy được súng ống thuốc đạn nhiều lắm. Các người thực dân ở Bắc bộ hăm hở ra đi lính rất nhiều. Ngày 19 tháng 9 năm 1777 hai bên lại đánh nhau, tự sáng đến tối, quân Anh lại thua. Mồng 7 tháng 10 đánh trận nữa quân Anh cũng thua. Quân Anh chết bị thương chỉ còn được 9 nghìn, mà quân dân binh 1 vạn 3 nghìn vây lại mấy từng. Tướng Anh là Hạp Căn phải đem quân ra hàng. Miền Bắc đất thực dân thanh thế rầm rực lắm. Trận thắng này gọi là trận thắng Sa Lạp Thác. Đại tướng dân binh tên là Nghê Đặc. Khi ấy ông Hoa Thịnh Đốn còn đóng quân ở bờ sông cách quân Anh 60 dặm. Quân Anh đã không qua sông được mới kéo lui ra ngoài đất Luân Cổ Ai Lan. Ông sợ quân Anh lên đánh miền Bắc, ông mới kịp sai quân giữ các chỗ hiểm yếu, mà ông tự đem 4 nghìn quân lên giữ phía nam châu Ty Lạp Ô á. Đến sau quân Anh đánh phá được đất Ty lạp Ô á, kéo thẳng sang phía bắc, ông đưa quân ra chống giữ; quân Anh 1 vạn 6 nghìn người mà quân ông chỉ có 4 nghìn nên bị thua, kéo lui. Từ ngày 25 tháng 8 đến ngày 25 tháng 9, ông chỉ có mấy nghìn quân đóng ở trên bờ sông, cùng mấy vạn quân Anh đánh nhau đến 30 ngày, trong vùng 60 dặm đất, lại bị thua mãi, nhưng ông cứ khoan thai sắp đặt, những người tòng quân lúc ấy, sau khi việc đã xong rồi, thuật lại việc lúc ấy hãy còn sợ mà biến sắc, nếu không phải ông Hoa Thịnh Đốn thời không ai nhẫn nại được những lúc nguy hiểm khó nhọc như thế. Từ đó về sau, ông cứ bị thua, cứ lui mãi, khi ấy miền bắc có trận thắng ở Sa Lạp Thác, ai cũng khen ông Nghê Đặc là tướng giỏi. Nghị hội nhiều người muốn cử ông ta ra thay ông Hoa Thịnh Đốn. Trước ấy các nước châu Âu nghe Bắc Mỹ tuyên cáo độc lập, muốn giúp Mỹ cho thành công, để giảm bớt thế lực nước Anh, nhưng lại sợ nước Anh, cho nên không dám công nhiên giúp Mỹ. Từ trận được ở Sa Lạp Thác đồn khắp các nơi, các nước đều biết Anh không làm gì được Mỹ nữa, vừa lúc ấy ông Phúc Lan Khắc Lâm đi sang Pháp, mới thừa cơ nói với nước Pháp đem quân giúp Mỹ, chính phủ Pháp nhận lời, mới sai hạm đội tuyển quân lính sang giúp. Quân viện binh Pháp đã kéo sang Mỹ, quân Anh được tin lấy làm sợ lắm, lui về giữ Nữu Ước. Ông Hoa Thịnh Đốn mới đem quân đuổi đánh, năm 1778, tháng 6 ngày 24, đánh phá được quân Anh. Quân Anh đã thua, quân dân binh lại được nước Pháp giúp, quân khí hăng hái lắm. Pháp lại giúp binh khí cho dân binh hợp mưu đánh Anh. Đến năm 1779, Nghị hội lại muốn sai ông đem quân sang Gia Nã Đại, ông nói đem quân đi xa là không nên. Từ ấy ông cứ đóng quân ở gần Nữu Ước, phòng bị quân địch, giữ gìn bờ cõi nuôi sức quân để chờ cơ hội. Lúc bấy giờ ở đất thực dân, chính trị rất bối rối: giấy bạc ra nhiều quá, phải hạ giá xuống đến nỗi một đôi giày da giá đến 600 đồng bạc giấy. Những quân lính đóng ở miền giữa thì lại vì sự vận chở không tiện, đồ cung cấp thiếu thốn, nhiều người dân đói rét mà chết. Trong quân đã có tiếng oán giận, đứa gan dạ thì mưu toan làm phản, đứa yếu hèn thì bỏ trốn về, nhưng ông Hoa Thịnh Đốn đem lòng chí thành ra sức khuyên dỗ, cho quân lính yên lòng, bởi thế nên nhiều người bảo rằng quân độc lập khỏi đến nỗi vỡ tan, không nhờ ông Hoa Thịnh Đốn, chỉ nhờ cái lòng thành của ông Hoa Thịnh Đốn mà thôi. Đến năm 1781, ông Hoa Thịnh Đốn mưu đánh Nữu Ước, trước hết chú lực về miền Nam, vì miền Nam nhiều chỗ trọng yếu, quân Anh ở Nữu Ước cốt nhờ miền Nam tiếp ứng, nếu đánh phá được miền Nam, thời quân Anh ở Nữu Ước không có tiếp cứu, thế tất không chống lại được; bèn chia một đội quân đến đánh Nữu Ước để lừa tướng Anh, mà ông tự đem quân kéo sang miền Nam, ước cùng quan tư lệnh thủy quân nước Pháp hợp quân đánh tỉnh Ước Khắc Đôn, vây mười ngày, lấy được tỉnh ấy; đồng thời tàu binh Anh cũng bị đội tàu Pháp bắt hết, mấy tỉnh miền Nam đều phá được cả. Phê bình Khi đất thực dân tuyên cáo độc lập, ai ai cũng vui lòng đi lính đánh trận, sau mấy lần bị thua, thì lại kẻ than người giận, đua nhau trốn về. Ôi ! Độc lập là cái việc thế nào, mà những người thực dân lại đầu mạnh sau yếu như thế ? Nếu không có ông Hoa Thịnh Đốn hết lòng thành, máu nóng của ông mà duy trì lại thời tất đến tan vỡ. Xem thế thì biết thiên hạ cốt nhờ một ít người anh hùng, chứ không tại phần nhiều kẻ phàm dân, bởi vì những kẻ phàm dân ấy, chẳng qua sinh cái cao hứng trong một lúc, chứ không có cái chí suốt đầu suốt đuôi, cho nên gặp phen thất bại thời đã nản chí nguôi lòng, vậy nếu một ít người tự mình không cầm được chắc chắn vững vàng, mà muốn lợi dụng cái dân khí trong một lúc, khinh dễ làm càn thời tất thất bại tan tành không cứu được nữa. Tôi nói thế không phải là ngăn những người có chí làm nên công nghiệp, thực là muốn trong đời này những người có chí, biết làm nên việc là khó mà khi nào cũng phải giữ gìn. Lấy việc nên hư mà xem người xưa nay, ai cũng không khỏi cái bệnh ấy, xem như trận thắng ở Ba Sĩ Đốn, Nghị hội với ông Hoa Thịnh Đốn hoan nghênh biết là đường nào, đến sau khi bị thua thời lại muốn sai ông Nghê Đặc thay ông làm Tổng đốc, nhưng ông Hoa Thịnh Đốn cũng không lấy làm điều, một mặt thì ông sửa sang những đồ quân bị, một mặt thời ông thân góp lũ dân binh, trong thời làm cho Nghị hội khỏi hoài nghi, ngoài thời giữ được quân Anh không đánh úp. Người đời xin đừng nói ông khi làm Tổng thống là vinh diệu, là sung sướng, phải biết ông khi trước đã chịu cay đắng khốn nạn biết chừng nào! 6. Cuộc độc lập thành công Các trận phương Nam đã phá, quân Anh thất thế, mới kéo lui ra ngoài Nữu Ước, từ ấy quân Anh ở đất thực dân đều tan tác hết. Nghị hội thấy quân Anh đã thua rồi, cuộc chiến tranh sắp xong, toan mưu xếp việc binh mà sửa sang việc chính trị. Ông Hoa Thịnh Đốn lấy làm chưa được, ông cưỡi ngựa đi nói với các ông nghị viên các châu rằng: “Nay quân Anh tuy thua, nhưng chưa đuổi ra khỏi bờ cõi mình, đã chắc rằng chúng nó không sang đánh lần nữa đâu. Vả bây giờ muốn cho chính phủ Anh nhận cho nước mình độc lập, thời phải sắp đặt binh bị chững chàng cho oai thế thêm rột. Nếu nước Anh không chịu nhận cho mình độc lập, chúng mình cũng quyết không có thể một ngày ngồi yên được”. Các nghị viên đều theo lời ông. Một mặt thời sắp đặt quân gia. Một mặt thời sai sứ sang mở cuộc hoà nghị ở kinh đô nước Pháp. Chính phủ Anh khi ấy cũng phải theo lòng thỉnh nguyện của người thực dân công nhận cho độc lập, hai bên ký hoà ước. Sứ giả đem thư về, nhân dân 13 châu đều nhóm họp lại, ở thành thị reo hô nhà nước muôn năm, ở nhà công hội chuông đánh rầm rầm, đèn đuốc đốt sáng suốt đêm, 13 châu á Mỹ Lợi Gia [ United States of America] từ ấy về sau, làm một nước độc lập. Cuộc chiến tranh đã xong, Nghị hội còn lo chăm về việc nội trị, chưa đền công lao các quân đội, các tướng sĩ không bằng lòng. Ông Hoa Thịnh Đốn mới khuyên các tướng sĩ rằng: “Các ông không nên thế, bởi vì các tướng sĩ mình là vì tranh tự do cho quốc dân mà ra đánh giặc, mà việc tự do của quốc dân lại phải lấy mệnh lệnh những người đại biểu trong Nghị hội làm khuôn phép, thế thời quân đội phải theo mệnh lệnh Nghị hội mới phải”. Các tướng sĩ không hiểu lời nói của ông, lại càng thêm giận, toan mưu lập ông làm vua để đánh đổ Nghị hội, ông lại khuyên dỗ rằng: “Than ôi! chúng mình bỏ cái hạnh phúc, liều cái sinh mệnh của chúng mình, mà ra đánh giặc, là vì việc gì? Không phải là cốt để cầu tự do cho nhân dân ở đất thực dân ta hay sao? Nay sao lại nhận một việc nhỏ mọn mà muốn bỏ mất cái tự do của mình đã tranh được đó, sao không khí tiết đến thế? Sao không có lòng từ bi đến thế? Than ôi! chúng mình chịu những nỗi khổ sở, bỏ anh em, lìa vợ con, lấy máu và thịt của mình mà mua được cái hoa tự do đẹp như thế, nay cái hoa tự do ấy đã gần nở, mà lại có người muốn phá hoại cái hoa ấy đi, thời quân đội thần thánh của ta quyết thề cùng những người ấy thù địch”. Quân đội nghe ông nói người nào cũng cảm khái tạ lỗi. Ông bèn viết thư cho Nghị hội, nói việc quân nhân giận giỗi, phải làm cho quân đội bằng lòng. Nghị hội cũng nghe lời ông. Tự ấy nước độc lập ở Bắc Mỹ mới khỏi được cái việc trở ngại, mà về sau được vẻ vang trong thế giới. Nếu khi ấy mà ông có bụng tham, nhân được quân đội phò tôn mình, nổi lên mà chống với Nghị hội, thời ở nước Mỹ khi ấy tất gây nên cuộc nội loạn mà người Anh nhân đó lại trở sang, thời cơ độc lập nước Mỹ tất là bị ngã đổ, ông Hoa Thịnh Đốn mới làm được người công to nước Mỹ là vì thế. Tháng 11 năm 1783, quân Anh đã kéo lui, ông Hoa Thịnh Đốn kéo quân vào phủ Nữu ước; ngày 12 tháng Tư, ông đại hội các tướng sĩ để từ biệt nhau. Đến ngày 19, ông đến sở Nghị hội trả cái ấn Tổng đốc lại, một mình cỡi ngựa về làng. Ông đã về nhà, chăm việc cầy ruộng, sớm dậy đi làm tối về nhà ngủ, hình như không nhớ mình đã từng làm quan đại tướng vậy. (Làm một cái công to như thế mà xem như không có, xưa nay có ai được như thế !!). Lúc trước ở đất thực dân, chưa có đường giao thông, các đường tàu thuyền cũng chưa được tiện lợi, ông Hoa Thịnh Đốn mới xuống nghị mở đường chạy tàu ở tỉnh Vật Nhĩ Cát Nê A, và đào các công trình vận tải, ông lấy việc ấy nói với châu hội, châu hội nghĩ ông lúc trước hết sức lo công việc công, nên ai cũng tán thành việc ấy, trong tờ nghị án có nói thêm một lời rằng: “Vì cái công lao Hoa Thịnh Đốn tướng quân, nên phải tán thành việc này”. Nghị hội lấy việc ấy là tự ông Hoa Thịnh Đốn xướng ra, người nào cũng ứng, nghị án mới được biểu quyết. Năm 1787, ở Vật Nhĩ Cát Nê A cử người đại diện ra làm chức nghị viên để sửa đổi quy ước đồng minh của Hợp chủng Bắc Mỹ; chúng đều cử ông Hoa Thịnh Đốn. Rồi cả hội lại cử ông làm đầu uỷ viên, để bàn bạc nghị án, tổ chức các chế độ Hợp chủng, sửa định hiến pháp. Hiến pháp định rồi, mới bầu cử chức Đại thống lĩnh, phần nhiều phiếu đều viết tên ông Hoa Thịnh Đốn ; khi ấy ông làm chức Đại thống lĩnh nước Hợp chủng Bắc Mỹ. Ngày 30/4/1789, ông ra đương chức Đại tổng thống. Ngày ấy ông từ nhà ra đến Nữu Ước, nghi vệ rất vẻ vang như khi thắng trận kéo quân về. Tới nhà hội, khi nhận chức, có lời đọc thề, trước hết tạ ơn các người bầu cử, sau ông lại nói: “Từ nay về sau làm việc gì cũng phải theo chính nghĩa công đạo, xin nhờ Thượng đế bảo hộ để làm hết được trách nhiệm v.v..”. Sau lại diễn thuyết ở Nghị hội, lời nói cũng vắn tắt, ông nói rằng: “Tôi được các ông tin tôi, cử tôi ra đương chức này, chỉ sợ rằng tôi bất tài, mà không làm trọn chức vụ, vậy tôi dám xin các ông giúp cho tôi, để cho nước Hợp chủng chúng ta được vẻ vang trong thế giới”. Khi ông được cử ra làm Đại thống lĩnh, ông về nói chuyện với bà mẹ, bà mẹ nói: “Ta nay đã già mà lại đau yếu, chết trong rày mai mà thôi, có lẽ lần này là lần cuối cùng trông thấy con, thôi con đi, vâng mệnh trời mà làm việc”. Ông Hoa Thịnh Đốn thương khóc không nỡ bỏ đi, bà mẹ khuyên bảo mãi mới đi. Khi đến Nữu Ước nhận chức rồi, lại cảm bệnh trong 6 tuần, bệnh đã khỏi thì được tin bà mẹ chết, ông đau xót quá, vội chạy về nhà, làm lễ an táng. Người nước Mỹ đều bảo mẹ ông là người hiền mẫu, sinh được con giỏi tạo phúc cho nước nhà ; ai cũng sẵn lòng tôn kính, cho nên khi nghe bà chết, ai cũng thương xót. Sau khi lập xong chế độ nước Hợp chủng, ông mới cử ông Ky Ai Phu làm chức nội các, ông Hạp Mỹ Lỗ Đốn coi việc tài chính, ông Hiển Lý coi việc quân vụ. Ông Hạp Mỹ Lỗ Đốn có bàn định lệ thu thuế, ông Ky Ai Phu phản đối chính sách ấy, vì thế thành ra nhiều đảng phái, mà ở dân gian cũng phản đối chính sách của ông Hạp; sắp gây nên sự loạn, đến phải dùng quân đội mà trấn áp mới thôi. Khi ấy ở trong triều đã chia đảng phái, ông Ky Ai Phu, ông Hạp Mỹ Lỗ Đốn, hai ông chống nhau mãi, ông Hoa Thịnh Đốn hết sức điều đình không được. Trước hết định lệ chức Đại thống lĩnh bốn năm thời hết hạn, ông đã làm mãn hạn rồi, muốn cáo về nhà, nhưng khi ấy trong triều nhiều việc rắc rối, quốc dân lại cử ông làm thống lĩnh lần nữa. Ngày 4 tháng 3 năm 1791, ông lại ra nhận chức. Lúc ấy việc ngoại giao lại nổi lên, nước Pháp tổ chức chính thể cộng hoà, tuyên chiến với nước Anh. Người nước Mỹ nghĩ nước Pháp khi trước đã giúp mình, nên bây giờ cũng biểu đồng tình, trong chính phủ kết điều ước đồng minh với Pháp. Ông Hoa Thịnh Đốn nghĩ rằng nước mình mới lập, nội lực chưa đủ, thời đối với liệt cường, không nên giúp nước nào, nên giữ trung lập là hơn, không nên nhận cái khí nghĩa hiệp nhất thời mà đem nước nhà để vào trong cuộc nguy loạn, đã nguy đến nước mình, mà cũng không ích gì cho nước Pháp. Ông bèn cự tuyệt sứ nước Pháp, mà tuyên cáo trung lập. Phê bình Nước Mỹ dựng nước mà chiến tranh đến bảy năm, thực là không dễ. Đã được nước Anh nhận cho độc lập, bông hoa tự do đang khi tươi tốt, không may lại xẩy ra việc quân đội xung đột với Nghị hội, lúc bấy giờ nếu không có ông Hoa Thịnh Đốn đem tấm lòng thành, khuyên dỗ quân đội, thời nạn trong đã khởi, nạn ngoài liền đến ngay, vận nước nhà tất đến nguy hiểm. Đến khi việc quân đội đã im thì việc đảng phái tranh nhau lại khởi. Xem cái cảnh nhất sinh của ông, toàn là cảnh ngộ rất nghịch hiểm, nếu mà một mảy không cẩn thận thời quan hệ đến đại cuộc không phải là nhỏ. Bạn thanh niên ngày nay những người có huyết tính hay ưa làm việc nhưng phải biết rằng, làm việc không khó, chỉ cốt là bỏ cái ý riêng bày cái lòng thực, chịu được đau đớn, ngó trước nom sau, làm sao cho không hại đến đại cuộc, đem mình ra đương lúc nguy hiểm thì mới làm việc. Nếu không thế, mà chỉ cậy cái khí huyết của mình trong một lúc, không chịu khổ, không chịu nắng, ngó đường nọ mà mất đường kia, tất đến hư cả toàn cuộc. Các nhân vật xưa nay chỉ có ông Hoa Thịnh Đốn là người cao khiết nhất. Xem khi cuộc độc lập đánh nhau, khốn nạn biết chừng nào, mà ông duy trì đến bảy năm không chịu bỏ lui, đến khi độc lập đã thành thời ông từ biệt quân sĩ, đến Nghị hội trả ấn Tổng đốc mà về nhà làm ruộng. Lúc đầu thì đuổi không đi, lúc sau thì gọi không lại, thiệt là như sách xưa nói: “Lo thì lo trước thiên hạ, vui thì vui sau thiên hạ” vậy. Đời nay đọc truyện ông Hoa Thịnh Đốn, nếu biết để con mắt đến chỗ ấy, thời tuy không làm được thống lĩnh cũng đủ thành được một vĩ nhân. 7. Lúc ông Hoa Thịnh Đốn về nhà cùng những việc vặt của ông Khi ông Hoa Thịnh Đốn lại ra làm thống lĩnh thời đảng phái tranh nhau càng dữ dội. Hạp Mỹ Lỗ Đốn tuy đã từ chức về rồi, nhưng ông Hoa Thịnh Đốn vẫn theo cái chính sách ấy, cho nên Ky Ai Phu vẫn cứ lấy ý kiến tranh nhau. Hai đảng ban đầu mỗi bên đều giữ một lẽ phải đã cãi nhau, sau thì thành ra ác cảm, bất kỳ việc gì, không luận phải trái cũng cứ cãi nhau. Ông Hoa Thịnh Đốn tự nghĩ, chỉ có rút mình ra ngoài chính cuộc, để cho những người địch với mình không biết phản đối với ai nữa, đợi khi họ đương cuộc bị việc khốn khó, biết khi trước là sai lầm thì mới hoà hợp được, vả chăng mình cũng đã già, chạnh niềm quê hương, cũng muốn cáo về. Năm 1798, chức thống lĩnh kỳ thứ hai đã mãn hạn, ông mới từ biệt với quốc dân mà về. Đến năm 1798 nước Mỹ cùng nước Pháp nhân việc ngoại giao toan khai chiến, nước Mỹ mới sắp đặt phòng ngự các chỗ thuỷ lục, lại cử ông ra làm phó tổng đốc, ông không chịu đi. Ngày 24 tháng 12 năm 1799 ông Hoa Thịnh Đốn mất. Trước mấy ngày ông cảm bệnh, nhưng ông hãy còn gắng dậy, ra đi dạo bước ngoài đồng, khi về được nửa đường, bệnh phát lên to, được mấy ngày thì mất, khi ấy ông 68 tuổi. Quốc dân Mỹ nghe tin ông mất như mất cha mẹ : nông phu nghỉ cày, bách công nghỉ việc, các nha môn công sở đều nghỉ cả, ngoài thành thị thì lặng phắc, không có tiếng người, chỉ thấy mấy đám mây buồn che phủ, ngọn gió hắt hiu thổi qua lá cờ rũ, nước Bắc Mỹ Hợp chủng khi ấy cảnh tượng tiêu điều thê thảm như tiết mùa thu, quốc dân thương khóc, và nhớ nghĩ, và cảm tạ, trăm mối cảm tỉnh tuôn ra như nước; bởi vì dân nước Mỹ mất một người cha từ ái, mất một ông tổ dựng nên nước nhà, nhớ người tuyệt thế vĩ nhân thực không thể nào khuây được. Khi ấy quốc dân đều để tang ông, đem di hài ông táng trên gò đất Ti Lỗ Nang. Gò đất Ti Lỗ Nang ở phía nam phủ Hoa Thịnh Đốn, cách xa 14 dặm ; mộ ông ở chính giữa gò, làm như nhà kho, ở trước có hai cái cửa sắt rộng lớn, trên có cái biển đá hoa, ở phía tả phía hữu dựng hai cái bia kỷ niệm cũng bằng đá hoa. Nhà để quan rộng hơn một trượng, bên hữu thì cái quan ông Hoa Thịnh Đốn, bên tả thì cái quan bà mẹ ông, bốn phía mộ trồng cây cỏ hoa huỷ , ngoài có vườn. Có cái nhà ở phía gần sông là nhà bà mẹ ông Hoa Thịnh Đốn. Giữa vườn trồng mấy cây dương liễu, ấy là lấy từ mộ ông Nã Phá Luân [Napoléon] nước Pháp đưa về trồng, vì người nước Mỹ lấy ông Hoa Thịnh Đốn và Nã Phá Luân là bậc đại vĩ nhân ở khoảng lịch sử cận thế. Ông Hoa Thịnh Đốn thì dựng nên nước Mỹ, ông Nã Phá Luân thì bắt phục được châu Âu , tuy một ông thành công, một ông thất bại, nhưng đều là người tuyệt thế, bởi thế mới đưa cây liễu tự mộ ông Nã Phá Luân về trồng. Khi ông Hoa Thịnh Đốn còn bé, có người nọ cho một cái búa nhỏ, ông mừng lắm, muốn chặt thử cây cối trong sân để xem búa có sắc không. Ông chặt nhầm một cây anh đào trước sân, khi người cha về, thấy cây anh đào bị chặt nổi giận, hỏi đứa nào chặt? Ông Hoa Thịnh Đốn thấy cha giận sợ hãi quá, trước còn chưa dám nói sau ông nhớ cách ngôn có lời rằng : “Làm người không nên không ngay thẳng”. Ông mới chạy lại trước mặt cha cúi xuống tự nhận là mình chặt. Người cha mừng lắm, bảo rằng : “Con biết giữ điều ngay thẳng thì ta tuy mất một trăm anh đào cũng không bằng cái điều ngay thẳng ở con”. Rồi người cha tha lỗi cho. Khi ông đi làm trắc lượng, cùng người bạn ngồi trên bờ sông, có một đứa trẻ con nhà làm ruộng, vừa lên bốn tuổi, chơi trên bờ, bỗng chốc rơi xuống sông. Người mẹ đứa bé ấy kinh sợ, kêu la người cứu. Sông ấy nước ở trên chảy xuống mạnh lắm, giữa dòng sông lại có đá lởm chởm, không ai xuống cứu. Ông trông thấy, liền cởi áo nhảy xuống sông, người mẹ thấy con đang chìm nổi lênh đênh, lấy tay chỉ cho, nhưng nước chảy mạnh quá, bỗng chốc lại không thấy con nữa, mới chạy thẳng bờ sông khóc to lên. Ông Hoa Thịnh Đốn lặn xuống nước mò đứa bé ấy hai lần, bị sóng ngăn lại không tìm được, một lát gần tới chỗ nước xoáy. Nước chảy càng mạnh lắm, trông thấy đứa bé con cách trước mặt vài ba thước, ông mới đạp sóng bước ra, ôm được đứa bé con ấy, trở vào bờ bị nước đẩy ra, sắp trôi vào vùng nước xoáy. Người mẹ thấy ông đã bồng được đứa con mình, bỗng thấy ông lại bị trôi xuống vùng nước xoáy, lại sợ lắm, tưởng con mình không thể cứu được nữa. Một chốc thấy ông ở giữa lòng sông nổi mình lên tay bồng đứa bé con đưa cho người mẹ, rồi trèo lên bờ. Người mẹ đứa mẹ vừa mừng vừa khóc, cầm hai tay ông Hoa Thịnh Đốn nói không lên tiếng, một hồi lâu mới nói rằng : “Ông liều mình cứu con tôi, thiệt không phải người tầm thường làm được, tôi xin trời giáng phúc cho ông”. Khi ấy Hoa Thịnh Đốn mới mười tám tuổi. Phê bình Ông Hoa Thịnh Đốn sinh bình thường thuộc lòng một câu rằng : “Chính nghĩa ở đâu, đạo ở đấy”. Bởi thế nên ông hết sức lo việc nước, chẳng quản một mình khó nhọc, ai cũng khen là người chính nghĩa, lại là nhân từ hay thương người. Như mùa xuân trời ấm gió êm, cỏ cây xanh tốt, ấy là nhân phẩm ông Hoa Thịnh Đốn. Ông Hoa Thịnh Đốn lúc đương nhỏ đã biết giữ thật thà không dối trá, xem việc chặt cây thì đủ rõ. Đến khi đã lớn thì không sợ khốn nạn, không lo thất bại, thấy việc nghĩa là cứ làm, xem việc cứu đứa trẻ chết trôi thì đủ rõ. Bởi một lòng thương xót nên đến nỗi liều mình mà cứu người. Xem việc trước thì ông có cái tính chất lấy công bằng ngay thẳng mà giữ mình; xem việc sau thì ông có cái tinh thần vì loài người, vì nước nhà, vì thiên hạ mà chẳng kể đến mình. Duy ông có cái tính chất ấy, có cái tinh thần ấy nên mới làm cho nước Hợp chủng Bắc Mỹ thành được độc lập. Ông Hoa Thịnh Đốn suốt đời chỉ giữ điều ngay thẳng và trong sạch, các nhà chính trị đời nay chỉ ưa dùng cái thủ đoạn giả dối, ông Hoa Thịnh Đốn, thì không thế, ông thường nói rằng: “Chính nghĩa là cái chính sách hay nhất”. Cho nên ông đối với người trong nước, đối với người ngoài đều lấy chính trực là gốc. Công nghiệp của ông truyền mãi đời sau, các châu đều dựng bia kỷ niệm. Kinh đô nước Mỹ lấy tên ông mà đặt tên. Người đời trông cái bia kỷ niệm ấy ai cũng sùng bái. Nhưng ông mà để tiếng muôn đời, không phải là cái bia kỷ niệm, cũng không phải cái mộ của ông ở gò Ty Lỗ Nang, chỉ tại ở nước Hợp Chủng Quốc cùng cái chính thể Cộng hoà của ông đã dựng ra, thực đủ làm gương cho muôn đời, mà cái tinh thần của ông cũng thường thấp thoáng ở trong nước Hợp Chủng và trong chính thể Cộng hoà ấy. Đông Tây vĩ nhân, quyển 2 Nhà in Tiếng Dân xuất bản. Huế, 1930. Lời dẫn: 1. Tổng luận 2. Gia thế ông Hoa Thịnh Đốn và khi ông còn trẻ tuổi Phê bình (tức Bình luận) 3. Việc chiến tranh ở đất thực dân nước Anh nước Pháp Phê bình 4. Vua nước Anh áp chế người đất thực dân Phê bình 5. Nước Mỹ độc lập đánh cùng nước Anh Phê bình 6. Cuộc độc lập thành công Phê bình 7. Lúc ông Hoa Thịnh Đốn về nhà cùng những việc vặt của ông |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét