HÙNG VƯƠNG NGỌC PHẢ
(Bản Hồng Đức nguyên niên)
(Bản Hồng Đức nguyên niên)
BẢN DỊCH 
Mục lục
Mục lục
CỔ VIỆT HÙNG THỊ NHẤT THẬP BÁT THẾ THÁNH VƯƠNG NGỌC PHẢ CỔ TRUYỆN
TÍCH XƯA LƯU LẠI CỦA BẢN NGỌC PHẢ CHÉP TRUYỆN TIỀN THÁI TỔ CAO HOÀNG ĐẾ CỦA THÁNH TỔ HÙNG VƯƠNG SƠN THÁNH 
[ĐẾ MINH 帝明]
 Cháu ba đời của vua Viêm Đế là Đế Minh sinh Đế Nghi rồi đi tuần du 
phương nam, đến núi Ngũ Lĩnh (giới hạn ở động Bạch Hổ tỉnh Vân Nam - xưa
 gọi là động Xích Quỷ, nguyên thuộc nước ta gọi là quận Giao Chỉ. Động 
Xích Qủy sau gọi là nước Xích Quỷ, nay đổi là nước An Nam) thì gặp nàng 
Vụ Tiên thần nữ, sinh ra Kinh Dương vương.
[Đời thứ 1]
KINH DƯƠNG VƯƠNG 涇陽王
Vua
 thông minh thánh trí, vượt trội hơn tầm của Đế Nghi. Đế Minh muốn 
truyền ngôi báu để làm chính thống cho muôn nước. Nhưng Kinh Dương vương
 cố nhường cho anh. Thế là Đế Minh lập Đế Nghi nối ngôi, cai trị phương 
Bắc, phong cho Kinh Dương vương quay mặt về phương nam mà cái trị thiên 
hạ [tức là làm vua phương Nam], gọi tên là nước Xích Quỷ.Kinh
 Dương vương kính tuân chỉ dụ của vua cha, đem quân lính theo núi Nam 
Miên mà đi về phía nam. Trên đường ngắm xem phong thủy, chọn nơi hình 
thế thắng địa để đóng đô ấp [tức quốc đô].Qua đất
 Hoan Châu (nay đổi là xứ Nghệ An. Nơi đó là các xã Nội Thiên Lộc, Tả 
Thiên Lộc, Tỉnh Thạch thuộc huyện Thiên Lộc phủ Đức Quang) vua chọn được
 một vùng phong cảnh tươi đẹp, [núi non]muôn nhẫn lâu đài, gọi là núi 
Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 ngọn. (Xưa gọi là Cựu Đô, nay gọi là 
Ngàn Hống).Vùng
 này giáp biển ở cửa Hội Thốn, đường núi quanh co, đường sông uốn khúc, 
địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông, bèn xây dựng đô thành 
để định nơi cho bốn phương triều cốngBấy
 giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua Kinh Dương bản tính thích 
phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du hải ngoại. Vua trải xem địa đồ, 
bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến hồ Động Đình. Vua sai dừng 
thuyền, đứng xem cảnh trời nước. Vua chợt thấy một thiếu nữ lưng eo dung
 nhan tuyệt sắc từ dưới nước đi lên. Vua cho là cuộc hội ngộ hiếm có xưa
 nay, bèn sai quân chèo thuyền đến gần. Vua nói:-Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?Thiếu nữ đáp:-Thiếp
 tên là Thần Long, là con gái vua Động Đình. Thiếp ở trong thâm cung cửa
 ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay gặp thiên sứ, nguyện được hầu trầu 
khăn.Kinh
 Dương vương vui mừng đẹp ý, bèn dắt tay thiếu nữ bước vào trong long 
thuyền. Vua cho quay thuyền trở về thành đô, lập Thần Long làm Cung vi 
chính khổn (Hậu cung Chính khổn)
Ngày
 sau vua lại đi tuần thú, rong ruỗi xa giá xem khắp các nơi sơn xuyên. 
Đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình đồi non chập chùng, sông đẹp núi 
lạ. Vua  bèn tìm mạch đất, nhận được khí mạch từ trên núi Côn Lôn đi 
xuống, qua cửa Ải, lòng sông thoát mạch, rồng đi gần xa đến núi Tụ Long 
tiếp với châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà Kim tinh cao muôn 
nhẫn. Mạch đất chảy đến các làng Hạ Hoa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù 
Ninh phủ Lâm Thao, rồi đến chùa Long Hoa thôn Việt Trì ở Ngã ba sông 
Bạch Hạc là dừng. Mạch này bên trái từ sông Lôi Hà núi đi đến đâu sông 
theo đến đó, qua các huyện Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương đột
 khởi núi Tam Đảo, Tả cung Tiên làm thanh long. Trùng sơn vạn thuỷ, nổi 
lên các dãy núi ở Lập Thạch, Bách Ngoã, Chu Diên, Thanh Tước, Ngọc Bội, 
Khai Quang. Phụ bên trái có các núi Châu Sơn, Sóc Sơn, Chung Sơn,Trà 
Sơn, Từ Sơn, Trạm Sơn, Tích Sơn, An Lão sơn thuộc xứ Kinh Bắc chầu về, 
dẫn đến Hải Dương, Đông Triều, Hoa Phong, Yên Tử thoát ra đến biển, Đồ 
Sơn tám xã làm Long đầu chầu án. Mạch bên phải từ Ba Thục, Hán Giang, 
Nhị Hà, Lô Giang, Thao Giang, núi chạy đến đâu sông theo đến đấy. Đến 
Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thập Châu, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Hà đến huyện 
Bất Bạt đột khởi núi Tản Viên. Hữu cung tiên làm Bạch hổ, muôn nhánh 
quần sơn nổi lên ở Minh Nghĩa, Phúc Lộc, Thạch Thất,Yên Sơn, Tây Phương,
 Sài Sơn, Tử Trầm, hũu bật đến Chương Đức, Đại Yên, Hương Tích sơn thuộc
 xứ Sơn Nam. Bên phải là Na Sơn, Nam Công, Vũ Phượng sơn, Đội sơn, Điệp 
sơn, Nghi Dương sơn, chầu phục vào trong, chảy thoát đến núi cửa biển 
Thần Phù ỏ núi Chính Đại thuộc Ái Châu, thoát đến Chích Trợ sơn, cửa Trà
 Lý làm đầu hổ chầu, lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đưòng, lấy Ngã Ba 
Lãnh ở sông Cả thuộc huyện Nam Xương làm Trung minh đường, núi Tượng Sơn
 ở Nam Hải làm Ngoại minh đường. Nghìn non nâng chủ, vạn thuỷ chầu 
nguồn, đều hướng về ngọn tổ sơn Nghĩa Lĩnh. Thu tận hình thế, vua nhận 
ra thế cục của đất này quý đẹp hơn đô thành cũ ở Hoan Châu, bèn lập 
Chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh để thỉnh thoảng ngự giá đến nghỉ. Bên ngoài 
lại dựng đô thành Phong Châu ( nay là Cựu đô thành ở thôn Việt Trì xã 
Bạch Hạc, huyện Bạch Hạc), đặt quốc hiệu là nước Văn Lang (Đông giáp Nam
 Hải, tây đến Ba Thục, đến bắc Động Đình hồ, nam tiếp nước Hồ Tôn (nay 
là nước Chiêm Thành). Rồi vua ngự giá về cựu đô ở Hoan Châu. Việc dựng 
đô thành của vua, trước bắt đầu ở núi Thứu Lĩnh, sau lại dựng ở núi 
Nghĩa Lĩnh, nay lấy núi Nghĩa Lĩnh làm nơi đóng đô ấp của nước Việt 
Thường. Bấy giờ vua đi tùân thú trở về cung điện ở núi Nghĩa Lĩnh vừa 
lúc cung phi con gái vua Thần Long có mang, rồng hiện điềm lành, khắp 
nhà rực ánh sáng đỏ, trong trướng hương thơm ngào ngạt toả ra. Cung phi 
nghỉ trong trướng ngọc khoảng một tuần (10 ngày) thì sinh ra Lạc Long 
quân. 
Lạc Long Quân huý Sùng Lãm, ở ngôi 400 năm, thọ 420 tuổi, sinh một bọc trăm trứng, an lành nở ra 100 con trai. Vương định 100 họ (tính), đặt 100 tên, xưng 100 hiệu, làm 100 vị thần, mỗi vị chiếm cứ một khu, đều xưng là Thuỷ tổ của Bách Việt, rất mực linh thiêng. Vua cha là Long Quân hoá sinh bất diệt, trở về biển thành Tiên, là Động Đình đế quân.Long quân bẩm sinh tư chất phi thường, tự có khí tượng đế vương, bèn được lập làm Hoàng thái tử.
Lạc Long Quân huý Sùng Lãm, ở ngôi 400 năm, thọ 420 tuổi, sinh một bọc trăm trứng, an lành nở ra 100 con trai. Vương định 100 họ (tính), đặt 100 tên, xưng 100 hiệu, làm 100 vị thần, mỗi vị chiếm cứ một khu, đều xưng là Thuỷ tổ của Bách Việt, rất mực linh thiêng. Vua cha là Long Quân hoá sinh bất diệt, trở về biển thành Tiên, là Động Đình đế quân.Long quân bẩm sinh tư chất phi thường, tự có khí tượng đế vương, bèn được lập làm Hoàng thái tử.
Bấy
 giờ có con gái của Đế Lai tên là Âu Cơ về sống ở quê mẹ tại động Lăng 
Sương huyện Thanh Nguyên châu Đà Bắc (nay đổi làm sách Lăng Sương huyện 
Bất Bạt). Một hôm Âu Cơ đi chới ở châu Trường Sa, gặp khi vua đi tuần 
thú ở Đà Giang. Vua thấy Âu Cơ dung nhan xinh đẹp, rất vừa ý, bèn lấy 
làm vợ, lập làm Hoàng phi. Thề ròi Kinh Dương vương sai Lạc Long quân 
ra ở tại đô thành núi Nghĩa Lĩnh tại Phong Châu thay vua cha làm việc 
nước.Kinh Dương vương ở ngôi 215 năm, thọ 260 tuổi. Lạc Long nhiếp chính.
[Đời thứ 2]LẠC LONG QUÂN tức HÙNG HIỀN VƯƠNG 雄賢王 
Long
 Quân lên nối ngôi, đổi hiệu là Hùng Hiền vương. Bấy giờ nàng Âu Lạc 
(tức Âu Cơ) có thai đã 3 năm 3 tháng 10 ngày, mây ngũ sức sáng bừng đầu 
núi Ngũ Lĩnh. Giờ ngọ ngày 25 tháng 12 năm Giáp Tí cái thai trong bụng 
Âu Cơ chuyển động, đến giờ ngọ ngày 28 khắp nhà hương thơm toả nức, ánh 
sáng loé lên trong trướng, hoàng phi Âu Cơ sinh ra một bọc màu trắng 
như ngọc. Khi hoàng phi mới sinh, hương lạ thơm nức khắp núi Nghĩa Lĩnh 
và cả vùng đất tổ Phong Thứu, Ngọc Lĩnh, Liên Trì (đầm sen).
Hiền
 vương thấy hoàng phi sinh tú bào hết sức dị thường , cổ kim thiên hạ 
chưa từng thấy. Người trong nước lấy làm lạ. Vua bèn triệu hội bách quan
 văn võ triều thần đến chầu ở chính điện. Giờ ngọ hôm ấy ba tiếng ống 
lệnh rung trời chuyển đất vang lên giữa không trung trong thành nội, núi
 sông cây cỏ muôn vật đều phải kinh hoàng, mây lành ngũ sắc sáng bừng 
khắp ba ngàn thế giới. Muôn chim bay chầu trên chính điện, dưới núi làn 
nước tung sóng cuộn dâng. Trăm kình nghê muông thú, muôn vật cá tôm gội 
gió mưa về chầu cống. Vua thấy quốc gia có điềm lành kỳ lạ, bèn
 xuống chiếu cho bá quan văn võ sửa sang áo mũ trai giới tịnh khiết đến 
tề tựu ở điện Kính Thiên đèn hương phụng hầu chầu lạy Hoàng thiên 
thượng đế, Tứ phủ vạn linh.
Ngày hôm ấy vào giờ Thân bỗng thấy một áng mây xanh từ phía Tây bay đến hội ở sân rồng điện Kính Thiên, rồi bốn vị thiên tướng hiện ra rất kỳ lạ. Các vị tướng ấy cao hơn nửa trượng, đầu đội mũ hoa, mình mặc cẩm bào xanh, lưng thắt đai ngọc, chân đi hài sắt, nói cười đều loé hào quang lưỡi lửa. Rồi giữa các tầng mây hiện lên nhiều thiên quan thiên tướng. Ngọc Hoàng thượng đế xuống sắc:
Ngày hôm ấy vào giờ Thân bỗng thấy một áng mây xanh từ phía Tây bay đến hội ở sân rồng điện Kính Thiên, rồi bốn vị thiên tướng hiện ra rất kỳ lạ. Các vị tướng ấy cao hơn nửa trượng, đầu đội mũ hoa, mình mặc cẩm bào xanh, lưng thắt đai ngọc, chân đi hài sắt, nói cười đều loé hào quang lưỡi lửa. Rồi giữa các tầng mây hiện lên nhiều thiên quan thiên tướng. Ngọc Hoàng thượng đế xuống sắc:
Hiền chúa Nam Miên bọc rồng trăm trứng, nở ra trăm trai trị nước.Nay sai Tứ đại Thiên vương phù giúp bảo hộ. Vậy ban sắc này.Hiền vương sai truyền long bài truyền các quan văn võ ngước lên trời cao vái vọng, rồi lạy tạ Thiên vương. Thiên vương nói:Bào ngọc trăm trứng, rồng lành giáng sinh.
Thiên
 sứ báo cho Hiền vương đặt chiếu sắc của Ngọc hoàng Thượng đế lên chiếc 
mâm vàng đem đến ngôi chùa cổ ở núi Viễn Sơn, chuyển cho Từ Sơn Thiên 
Quang hoà thượng ở ngọn Thứu Lĩnh (sau đổi là Thiên Quang thiền tự) lưu 
giữ ở trong chùa, chọn quan trai giới chầu hầu, đèn hương không ngớt. 
Đến ngày bào trứng nở ra, Hiền vương theo lời dặn của Tứ đại thiên vương
 chờ đợi các trứng tự nhiên biến hoá. Hiền vương thành tâm làm lễ cầu 
đảo lớn.
Thế
 là vào giờ ngọ ngày rằm tháng giêng trăm trứng an lành nở ra trăm con 
trai. Khắp Long thành đầy mây ngũ sắc, ánh lành toả rạng khắp nơi, hương
 trời thơm ngát bay toả khắp chốn núi sông.
Trong
 khoảng một tháng các chàng trai không cần bú mớm mà lớn bật lên như 
người trưởng thành, tướng mạo phương phi, dáng hình kỳ tú, thân cao ba 
thước bảy tấc, cái thế anh hùng.
Hiền
 vương triệu phi tần sáu cung đến phát các tấm gấm lĩnh để khâu may 100 
bộ áo mũ cấp cho các chàng trai. Trong một ngày các cung nữ được ba lần 
cười vui, thường lấy hoa sen, lá sen trên hồ đem đến tặng cho các chàng 
trai. Được một trăm ngày, các chàng trai đã lớn, nhưng không biết nói, 
chỉ biết cười. Đúng trăm ngày, vào giờ Thìn ngày 20 tháng 7 cả trăm 
chàng trai đều cười vang, nói lớn:
Trời sinh bậc thánh,
Trị nước sinh vua,
Thanh bình bốn biển,
Thiên hạ vững yên.
Thế là một trăm hoàng tử đều đến trước sân rồng ở điện Kính Thiên.
Bỗng
 thấy một áng mây ngũ sắc từ trên không bay sà xuống sân rồng. Hiền 
vương thấy 8 vị thiên tướng đầu đội mũ đồng, mình mặc áo bào giáp 
sắt,chân đi hia bạc, lưng thắt khăn rồng quá độ (quá độ long cân?), 
tướng mạo sang quý sáng láng, mắt sáng như sao, miệng nhả hào quang hoả 
khí, tay cầm thần kiếm linh trượng, chày ngọc búa sắt, dàn hàng đứng hai
 bên tả hữu chờ lệnh. Bỗng không trung biến hoá, nhất thời mưa gió nổi 
lên,mây mù vờn bay vây quanh chính điện trên núi Nghĩa Lĩnh. Trong 
khoảnh khắc núi non mất hình, sông suối tràn dâng, không ai lường được 
chuyện gì xẩy ra. Sau khoảng ba giờ (nửa ngày) bầu trời lại tạnh sáng. 
Đó là 8 vị thiên tướng gọi là Bát bộ Kim Cương vâng sắc chỉ của Chư Phật
 ở Thượng thiên sai xuống hộ vệ 100 vị hoàng tử. Nay các hoàng tử đã 
trưởng thành đôn hậu minh mẫn, tám tướng phụng sai đưa các hoàng tử đến 
lạy mừng vua cha trị bình trong nước.
Tâu
 xong các các thiên tướng biến hoá bay về trời, ban cho Hiền vương một 
lệnh long bài, một quả bảo ngọc thần ấn, một hòn ngọc trắng, một thanh 
kiếm thần, một quyển Thiên thư (sách trời), một chiếc thuớc ngọc, một 
chiêc mâm vàng, tất cả đều đặt trong chính điện. Hiền vương vâng mệnh 
đón nhận, coi đó là điềm lành lớn trời ban để trị yên thiên hạ.
Hiền
 vương thấy 100 con trai bỗng nhiên đã trở nên cao lớn, thân cao bảy 
thước ba tấc, tay cầm thần khí thiên bảo, chia hàng đứng chầu hai bên tả
 hữu. Các hoàng tử lạy mừng phụ hoàng. Hùng vương xuống chiếu truyền 
rằng:
Trăm
 con trời sinh của ta thánh văn thần vũ, hùng tài đại lược, giúp nước 
yên bình, thiên hạ ngước trông, thi nhân hoá đức, cha con vua tôi cùng 
vui.
Hiền
 vương cho triệu bách quan đến lạy mừng rồi cùng triều hội để nghị bàn 
quốc sự, đổi hiệu thay tên. Trăm con trai trăm hiệu, vị thứ cao 
thấp trước sau. Trăm hoàng tử đều có tư chất hơn người, anh hùng bậc 
nhất xưa nay, thần tài thánh trí. Các quan triều đình lúc ấy cũng không 
ai dám phân biệt được trong các hoàng tử thì ai là người anh minh 
quyết đoán hơn, cho nên cũng khó đặt các danh hiệu. Triều đình tâu rằng:
-Nước
 có Thánh vương, sinh các hiền tướng, đều là những bậc trong triều không
 ai sánh bằng, vậy nên chúng thần không ai dám bàn định danh hiệu các 
hoàng tử. Kính thỉnh Thánh phụ xét tài của các hoàng tử để định danh 
hiệu.
Hiền vương phán rằng:
-Chính
 sự lớn của triều đình phải có người anh tài nổi bật mới có thể đảm 
đương được. Trẫm vâng mệnh Trời gây dựng cơ đồ lớn lao, mở nước trị dân,
 theo mệnh trời sinh đựoc trăm con trai. Nay trẫm muốn phong truyền chức
 quan cho các con, Trẫm thành tâm lập đàn chay,  mật khấn Hoàng thiên 
cùng vạn linh ngự hội để đặt định danh hiệu trăm quan.
Bấy
 giờ vua lên đàn tràng khấn lễ cầu đảo lớn. Vua vừa cầu khấn xong, tự 
nhiên có cảm ứng, có vị thần ở phương Tây tới. Bỗng thấy một ông già râu
 tóc bạc phơ đầu đội mũ Phật gấm lĩnh, mình mặc áo vải nhuộm nâu,  chân 
đi hia, tay cầm gậy tre ra chơi chùa Hoa Long ở thôn Việt Trì huyện Bạch
 Hạc. Ông già rửa chân bên sông rồi ngồi nghỉ trên tảng đá phẳng trên 
con sông gọi là sông Nhị Hà. Hôm ấy có triều quan là Nguyên suý tiết chế
 tướng quân trấn thủ đô thành Phong Châu đang ngồi trên ngôi lầu bên 
sông. Quan Nguyên suý trông thấy ông Tiên đang xem phong thuỷ, cúi đầu 
nhìn xuống đáy sông, một chân ghếch lên tảng đá hình lưng rùa (Đá lưng 
rùa ở thôn Việt Trì huyện Bạch Hạc; chùa Hoa Long ở bên bờ sông. Nay dấu
 tích ông Tiên hãy còn). Quan trấn thủ bền mời cụ già đến hỏi chuyện. 
Quan đem hết chân tình quốc sự bộc bạch với cụ già, mở tiệc khoản đãi 
rồi mời ông về điện vua trên núi Nghĩa Lĩnh. Triều quan vào tâu vua. Vua
 thân hành ra mời cụ già vào cung mở tiệc chúc mừng. Hiền vương hỏi:
-Tiên sinh từ đâu đến ngao du phong cảnh ở đây? Nay trong nước có chuyện lạ, nhờ Tiên ông chỉ giáo cho.
Tiên ông ha hả cười vang.
Hiền vương vẫn đứng nói chuyện, hỏi Tiên ông:
-Trẫm
 có điềm lành sinh đựoc trăm con trai trí tuệ thông minh thì tất cả đaọi
 khái cũng như nhau, cho nên khó đặt định danh hiệu vị thứ, cũng không 
biết ai anh ai em. Kính nhờ Tiên ông đặt tên, định thứ bậc giúp cho
Tiên Ông đáp:
-Ta
 sinh ở thời Hoàng Đế, theo học đạo Phật, ngao du nơi hải ngoại càn 
khôn. Trong ba ngàn thế giới ta thích đến nuớc Nam Miên ngắm xem phong 
thuỷ. Vua cho mời ta đến đây, ta có một quyển sách thần có thể bói xem 
mọi việc trong thiên hạ, gọi tên các vị Tiên. Huống chi quốc gia đã có 
thành tâm lập đàn cầu đảo, đã cầu tất ứng. Xin nhà vua thành tâm để lão 
vận trù một quẻ hỏi xem tiền định thế nào? Tiên Ông bèn xem mặt các 
hoàng tử, phân định thứ bậc anh em. Đoạn Tiên ông lấy bút giấy ra đặt 
tên cho một trăm hoàng tử. Viết xong, Tiên ông đặt tờ giấy lên chiêc mâm
 vàng. Để phân định thứ bậc anh em, Hiền vương lại  gọi 100 hoàng tử 
đến hội ở chính điện để nhận tên đã ghi trong sách. Mọi người đồng thanh
 cần phải có bậc huynh trưởng đứng đầu. Rồi mọi người lại chia xếp thành
 hai hàng đối nhau đợi lệnh. Một người được gọi tên được lập làm Vương 
trừ thái tử (Thái tử nối ngôi vua), còn 99 người khác lần lượt đến trước
 mâm vàng nhận danh hiệu được ban. Từ đó thứ bậc anh em phân định rõ 
ràng, ai nấy đều vui. Xếp đặt mọi việc đã xong, Tiên ông tự nhiên biến 
hoá về trời. Hiền vương sai các quan thường xuyên đến chùa Từ Sơn Thiên 
Quang Hoà thượng cầu Phật ứng hộ. Vương trừ Thái tử tục danh là Hùng Lân
 sau đổi là Hùng quốc vương. Các con thứ có tên là Xích Lang, Quỳnh 
Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Huân Lang, Yến Lang, Tiêu Lang, Diệu
 Lang, Tĩnh Lang, Tập Lang, Ngọ Lang, Cấp Lang, Tiếu Lang, Hộ Lang, Thục
 Lang, Khuyến Lang, Chiêm Lang, Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần 
Lang, Tán Lang, Quyền Lang, Đường Lang, Kiều Lang, Dũ Lang, Ác Lang, Hãn
 Lang, Liệt Lang, Ưu Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang, Thế Lang, Dạng lang, 
Tróc Lang, Sát Lang,Cốc Lang, Nhật Lang, Sái Lang, Chiểu Lang, Điềm 
Lang, Kiềm Lang, Trường lang, Thuận Lang, Tẩm Lang, Thai Lang, Triệu 
Lang, Ích Lang, gồm 50 trai theo lệnh cha. Hương lang, Thiêm Lang, Thận 
Lang, Văn Lang, Vũ Lang, Linh Lang, Tịnh Lang, Hắc Lang, Quản Lang, Cao 
Lang, Tế lang, Mã Lang, Chiếu Lang, Khang Lang, Chỉnh Lang, Đào Lang, 
Nguyên Lang, Miên Lang, Xuyến Lang, Yêu Lang, Thiếp Lang, Bái Lang, Tài 
Lang, Trừng Lang, Triệu Lang, Cố Lang, Lưu Lang, Lộ Lang, Quế Lang, Diêm
 Lang, Huyền Lang, Nhĩ Lang, Tào Lang, Nguyệt Lang, Sâm Lang, Lâm Lang, 
Triều Lang, Quán Lang, Canh Lang, Thải Lang, Lôi Lang, Thấu Lang, Việt 
Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Trình Lang, Tuấn Lang, Tòng Lang, 
Thanh Lang, gồm 50 trai theo lệnh mẹ.
Từ
 đó các hoàng tử đều đã có tên gọi, trưởng thành phương trưởng, ngồi 
chính toạ ở triều đường, vị thứ xếp trên các quan. Hiền vương bèn phong 
hầu riêng cõi, chia nước làm 15 bộ:
Một
 là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái
 Châu, sau là Hoan Châu. bảy là Bố Chanh, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao,
 mười là Hưng Hoá, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bình, mười 
ba là Lạng Sơn, mười bốn là Quảng Tây, mười lăm là Quảng Đông.
Trước đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
-Ta
 là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung 
sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải lìa nhau thôi. Chia 50 con 
theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. Chia 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn 
tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, 
đều là với danh nghĩa thần thuộc. Vua bèn đặt quan văn gọi là Lạc hầu, 
đặt tướng võ gọi là Lạc tướng; các vương tử gọi là Quan Lang vương, các 
vương nữ (công chúa) gọi là Mị Nương. Các quan hữu ti gọi là Bồ Chính.
Thời
 bấy giờ trên chính nhân luân, dưới hậu phong hoá, thi hành việc gì ai 
cũng được thích nghi. Vua vì thế đựoc rũ áo khoanh tay, hoà mục 
trong chốn cửu trùng. Dân nhờ thế được đào giếng cấy ruộng, vui sống ở 
nơi thôn dã. Không một người dân nào bị xua đuổi không chốn sinh cư, 
không một vật nào không được yên bề nuôi dưỡng. Công thành trị định, 
đứng đầu so với các tiên vương, dẫu là phong hoá của thời thái cổ cũng 
không sánh kịp.
Hùng
 Hiền vương hưởng nước dài lâu, đời đời cha truyền con nối, đều gọi là 
Hùng Vương. Ngọc lụa xe thư, núi sông một mối. Đó là Thuỷ tổ của Bách 
Việt.
Hiền vương ở ngôi bốn trăm năm, sau về biển, hoá sinh bất diệt, làm Động Đình đế quân.
[Đời thứ 3]
HÙNG QUỐC VƯƠNG 雄國王
Thái
 tử là Hùng Quốc vương đứng đầu trăm anh em tôn thừa nghiệp lớn, sau khi
 nối ngôi thi hành chính sự đức giáo, khuyến khích nông tang, khiến dân 
không lo nghèo thiếu, nước có tích luỹ của dư. Hoàn vũ thanh bình, không
 ai gian xảo giả dối, phong tục hồn thuần chất phác. Xét xem xuyên suốt 
cho đến bấy giờ, vua là bậc nhiều công hưng trị, càng sáng hơn các tiên 
vương, các đời đều tôn xưng là bậc hiền quân. Bấy giờ vua truy ơn các 
bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ sơn 
tinh thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, chia đất đầu núi 
góc biển, hùng cứ một phương. 50 trấn đầu núi đều gọi là Quan lang phiên
 thần phụ đạo;  50 trấn góc biển đều gọi là Thuỷ thượng linh thần, tiện 
cho việc bảo hộ sinh dân, khuông phù xã tắc. Hùng Quốc vương hưởng ngôi 
hơn 221 năm, thọ 260 tuổi, sinh đựoc con trai con gái 50 hoàng tử. 
[Đời thứ 4]
HÙNG VIỆP VƯƠNG 雄曄王
Thái
 tử Hùng Việp vương nối ngôi chính thống, nhớ công ơn sáng đẹp của tiền 
nhân để giáo hoá khích lệ sĩ phong. Lấy nhân nghĩa làm khuôn dân tục. 
Dựng xây tu sửa miếu đền, bách thần được thăng phong cấp bậc, hoá nhật 
thiên hạ sáng tưng bừng. Không đất nào không có nhân tài, trong hoà khí 
xuân phong vẳng nghe  nhạc thiên uy, xuất hiện thái bình cảnh tượng. Ở 
đời có vầng sáng, thẳng thông với tiền nhân hướng trị thế cùng về. Vua 
hưởng ngôi 300 năm, bèn lập Thái tử là Hùng Hy vương để kế thừa quốc 
thống.
[Đời thứ 5]
HÙNG HY VƯƠNG 雄羲王
Hùng
 Hy vương lên ngôi, nắm vận lớn bốn đời, nhạy bén hưng khởi trị bình, 
trong sửa văn đức thu phục nhân tâm, ngoài lập vũ công, chấn uy phong 
với nước lạ, khiến cho xã tắc yên bình, biên cương vô sự. Từ đó người xa
 bắc thăng trèo núi mà đến, vượt biển mà sang, chẳng đâu không thần 
phục, chốn xa nơi vắng, thảy đều thấm nhuần mỹ hoá thuần phong, trị công
 lỗi lạc, so với tiền vương không thẹn, đủ làm một đấng vua hiền. Hùng 
Hy vương hưởng quốc lịch 200 năm, bèn lập Thái tử là Hùng Huy vương kế 
thừa quốc chính.
[Đời thứ 6 ]
HÙNG HUY VƯƠNG 雄暉王
Huy
 vương lên ngôi, noi theo quy chế của tiền vương, cũng có chí chăm việc 
nuôi dân. Nhưng kế thừa nền thái bình đã lâu, ngòi rãnh dễ tràn, cam 
chịu yến tiệc yên vui, không chịu khó nghĩ suy chính sự. Bấy giờ có Bà 
mo (vu nữ) tinh thông địa lý thông hiểu thiên văn, thường đem bí pháp 
thần cơ tâu vua, tự xưng là Tiên nhân, xin cho vào hầu trong cung để 
thưa đáp khi vua cần hỏi đến. Ngày sau đình thần có vị quan tâu rằng: 
-
 Bà mo ấy mù tịt về mo sử, xem ra chỉ là một mụ đàn bà bình thường thôi!
 Chỉ giỏi bàn luận vu vơ, thực chẳng biết trời đất thiên địa. Sao vua 
lại cho mụ ta hầu cận, bàn nói chuyện hoang đường? Bọn thần cho rằng bệ 
hạ đã bị mụ ta làm mê hoặc.
Vua
 cho là phải, bèn sai bắt bà mo giam trong cung. Sau đó vua sai lập một 
đàn tế khác, cũng làm giả các voi trắng không ngà, voi đen ba chân, ngựa
 đỏ năm chân để cầu đảo với Thiên vương. Vua bảo đình thần:
-Trẫm dùng kế ấy để xem người bà mo có biết giả trá hay không?
Hoàng
 thiên tuy cao, nhưng nghe xong tỏ ý không bằng lòng, xem đến các đồ lễ 
thì hoàn toàn không linh ứng. Hoàng thiên bèn giáng tai ương để cảnh báo
 nhân quân không có đức.
Bấy
 giờ Hùng Huy vương mới nghiệm biết đạo trời báo ứng ngay trước mắt. Bấy
 giờ vua cho đưa bà mo đến bảo: " Ngươi biết dò xét huyền cơ, nay trong 
ngước có triệu chẳng lành, ngươi có thể bay lên trời tìm hỏi xem lý do 
thế nào?
Bà
 mo bèn nằm thiếp trong khoảng ba canh rồi nói lảm nhảm như người đang 
chiêm bao. Ba ta nói mình đã đến trước cửa khuyết Thiên đình, tâu rằng: 
"Tôi vâng mệnh quốc vương lên tâu thiên đình: Nay trần thế đang có tai 
ương, chưa biết nguyên do nào gây nên như thế?
Ngọc Hoàng phán:
-Ngươi
 mau trở về báo cho vua ngươi biết: Lưới trời lồng lộng, thưa mà không 
thể lọt. Trần hoàn lóc lóc [1] , có cầu có nguyện tất được tòng tâm.
Hùng
 Huy vương mù quáng kiêu căng, rông càn làm lễ vật giả dối. Đó là do 
trời báo phạt, không chỉ giáng bấy nhiêu tai ương mà thôi. Ba năm sau 
[nếu không sửa chữa] tất sẽ có nạn giặc lớn!
Nghe
 phán xong, bà mo liền tỉnh lại. Bà mo tâu lại mọi chuyện với vua. Huy 
vương nghe nói cả kinh. vẫn cho bà mo ở lại trong cung để nghiệm xem lời
 nói của bà ta có nghiệm hay không. Huy vương lại sai triều quan 
dựng đàn ở Trung Đô, các lễ vật như voi ngựa vàng bạc đều dùng đồ vật 
thật ở trung cung. Khi lễ nghi đã đầy đủ, vua thân lên đàn đọc văn khấn 
tế:
-Ngu
 si lầm lỗi, đem vật uế dâng lễ Hoàng thiên. Sự hãy nhãn tiền, xét xem 
đủ thấy. Cúi xin Thượng đế chuyển hoạ làm lành, đội ơn vạn hạnh. Ngu si 
cúi ngước, cậy nhờ ơn đức Hồng quân!
Vua
 khấn xong, bỗng thấy mây cuồn gió cuộn nổi lên, trời mung lung chuyển 
sắc. Khói hương trên đàn tế bay lên hoà sắc cùng mây lành đang toả 
xuống.
Hùng
 Huy vương thảng thốt kinh sợ, khấu đầu lạy tạ rồi lên xe về cung. Vua 
lại sai bà mo lên thiên đình xin Hoàng thiên tha tội để nước nhà được 
yên. Bà mo trở về tâu với Huy vương:
-Vua
 biết hối lỗi, đã đựoc Hoàng thiên xét soi. Tuy năm sau có giặc xâm 
lăng, nhưng trời cho nhân tài sinh ra để giúp nước, vua khỏi phải lo 
nghĩ nhiều!
Vua
 tin lời.Quả nhiên ba năm sau bỗng có tin từ biên cương đưa về cáo cấp: 
Tướng giặc Ân là Thạch Linh thần tướng khởi binh từ Bắc đạo tiến sang, 
giáo mác giáp trụ liên tiếp kín trời, tinh kỳ rợp đất, quả đúng như lời 
bà mo đã nói. Hùng Huy vương bèn cho đắp đàn tế, trai giới tịnh khiết 
rồi lên đàn thắp hương cầu khấn. Các quan triều đến dự hội tế suốt trong
 ba ngày. Sau đó mưa to sấm gió nổi lên, bỗng thấy một cụ già thân cao 
hơn 9 thước, mày râu bạc phơ đang cười nói nhảy múa ở chỗ ngã ba đường, 
ai trông thấy cũng phải lấy làm lạ, cho là bậc kỳ nhân. [Quan hầu] vào 
tâu vua, vua đích thân ra đón mời vào đàn tế, nói với kỳ nhân rằng: 
-Nay
 quân Bắc sang xâm lăng, thắng thua chưa biết thế nào, xin lão ông cho 
chỉ giáo. Lão ông trầm ngâm hồi lâu, rút thẻ bói quẻ rồi đáp:
-Nếu tìm được người thì giặc này không đáng phải đánh dẹp!
Nói
 xong cụ già vút lên không bay đi. Vua thấy vậy biết đó là lời dạy của 
Lạc Long quân. Thế là vua sai người hầu đi tìm khắp nơi trong nước.
Sứ
 giả đến làng Phù Đổng quận Vũ Ninh (nay là huyện Tiên Du). Làng ấy có 
người nhà giàu tên là Ông Trưởng, ông 79 tuổi mà bà cũng đã 59 tuổi. 
Trước nhà có mảnh vườn trồng hoa. Sáng sớm ngày 6 tháng giêng năm Quý 
Hợi bà vào vườn hái hoa, thấy dấu chân người khổng lồ. Bà bèn gọi chồng 
cùng vào vườn xem, quả nhiên thấy có dấu chân của thần nhân. Ông chồng 
bảo bà vợ bước chân trái dẫm vào đó. Tự nhiên bà thấy cảm động trong 
người, rồi mang thai. Đến ngày 8 tháng Tư năm Giáp Tí bà sinh một con 
trai. Con được đúng một tuổi thì Ông Trưởng qua đời, chỉ còn mẹ già sáu 
mươi bú mớm nuôi con, lên ba tuổi đặt tên là Thiết Xung thần vương, ăn 
uống lớn phỗng, nhưng không biết nói cười. Ngày hôm ấy cậu bé đang nằm 
trong dóng, mẹ cậu nghe sứ giả đi rao khắp thiên hạ nói là tìm người 
có đại tài đi đánh giặc thì nói vui rằng: "Con ta chỉ biết ăn uống mà 
không biết đánh giặc để triều đình trọng thưởng quan tước mà trả ơn bú 
mớm cho mẹ". Nghe mẹ nói thế, cậu bé bỗng bật ra lời nói: 
-Xin mẹ gọi sứ giả vào đây!"
Khi sứ giả vào nhà, cậu bé nói:
-Ta
 là Thiết Xung thần tướng đây! Trời sinh ra ta để giúp nước, dẹp loạn 
cứu dân. Ngươi về triều thưa với vua cho ta một con ngựa sắt cao 10 
thước, một cây vọt sắt dài 10 thước, một chiếc nón sắt rộng 3 thước, đưa
 mấy thứ ấy đến đây cho ta là vua không phải lo gì nữa!
Sứ
 giả trở về chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh tâu vua đầy đủ mọi việc. Vua cả 
mừng, sai tìm đủ 50 trăm (=5.000) cân sắt để rèn thành ngựa sắt, vọt 
sắt, nón sắt. Đến giờ Mão ngày 7 tháng Giêng năm Bính Dần vua sai quan 
Tiết chế đem 10 vạn hùng binh đem ngựa sắt roi sắt nón sắt đến làng Phù 
Đổng. Thiết Đổng nói:
Vua theo đúng hẹn,
Vận nước lâu bền.
Quân giặc phải tan,
Một ngày giúp nước,
Thiên cổ danh vang.
Rồi Thiết Đổng nói với mẹ và họ hàng thân thích rằng: "Tính con hay ăn, xin soạn cho các món trâu rượu, hoa quả".
Dân
 lang nghe thế nhà nhà đem trâu rượu đến. Chỉ trong chốc lát Thiết Đổng 
đã ăn xong bữa tiệc lớn để lên đường đi giúp nước cứu dân.
Ngày
 hôm ấy mặt trời vừa đúng chính ngọ, Thiết Đổng cười vang một tiếng, đưa
 tay khịt mũi mười lần, tiếng vang như sấm, ánh mắt loé sáng như chớp 
rồi vươn mình cao hơn 18 thước. Vì chưa kịp may quần áo nên sai 10 vạn 
quân đi bẻ hoa lau đem về kết thành đồ mặc.
Thiết Đổng lạy tạ mẹ:
-Mẹ là Thánh mẫu, con là Thần vương. Một ngày lập công giúp nước, vạn năm hương lửa vô cùng!
Thiết Đổng nói xong nhảy lên ngựa, thét vang như sấm:
-Ta là Thiên tướng thần vương, vâng sắc chỉ xuống giúp nước!
Rồi
 quất ngựa phóng như bay, chỉ phút chốc đã đến dưới chân núi Vũ Ninh 
huyện Yên Việt đại chiến với Thạch Linh thần tướng bên sườn núi Vũ Ninh.
 Quân nước Ân thua to tan chạy. Thạch Linh thần tướng bị bắt sống chém 
đầu. Bọn giặc còn lại chưa diệt hết, nhưng vọt sắt của Thiết Đổng thần 
vương đã bị rơi mất. Thần vương bèn nhổ lấy các bụi tre gai vung lên 
quét sạch các toán quân giặc! Khi đến núi Sóc xã Vệ Linh huyện Kim Hoa 
Thiết Đổng thần vương bèn cởi bỏ bộ áo hoa lau, phóng ngựa bay lên không
 rồi cưỡi lên các đám mây mà bay đi. Nay nơi ấy vẫn còn dấu chân ngựa in
 trên lèn đá.
Nghĩ Thiết
 Đổng thần vương có đại huân lao giúp nước, nhưng chưa từng gặp mặt, 
không biết lấy gì báo đáp, Hùng Huy vương bèn truy tôn thần là Phù Đổng 
thiên vương, truy tôn bà mẹ làm Thánh mẫu, cho dựng đền thờ trên nền nhà
 cũ. (Nay ở xã Phù Đổng huyện Tiên Du và thôn Đổi Mã xã Vệ Linh huyện 
Kim Hoa có các đền miếu phụng thờ) Cấp cho làng Phù Đổng 100 khoảnh 
ruộng để đèn hương phụng thờ.
Vua
 lại cho xây điện Cửu trùng tiêu (điện cao chín tầng) trên núi Nghĩa 
Lĩnh làm Kính Thiên linh điện để thời thường cầu đảo, vâng lĩnh ý trời. 
Từ đó trong cõi thái bình, nước nhà vô sự. Nhà Ân trải 27 đời vua hơn 
640 năm không dám đem quân sang đánh nước Nam . Hùng Huy vương hưởng 
nước 87 năm, thọ 100 tuổi thì băng (Mộ táng ở trước núi, hướng Kiền 
Tốn).
[Đời thứ 7]
HÙNG CHIÊU VƯƠNG 雄昭王 
Thái tử là Chiêu vương nối ngôi kế thừa đại thống.
Vua
 cố gắng chuyên tinh chính trị, sau khi đựoc kế thừa thanh thế đánh giặc
 vang lừng của vua cha bèn cho cất cung khoá giáp, tỏ ý không dùng binh 
nữa, chỉ lo an dưỡng muôn dân, sửa sang giáo hoá. Rồi đó lấy chuyện 
trước làm răn, không dám làm càn dâng lễ uế tạp khiến cho hoàng thiên 
giận giáng tai ương, giặc ngoài biên mấy lần xâm phạm, sáu đời thừa 
huởng thái bình bỗng trở thành thời loạn. Từ đó vua kính sùng thiên đạo,
 kính thờ quỷ thần, phàm các nơi trên núi dưới biển ở đâu có hiển ứng 
linh thiêng đều sai trăm quan văn võ đến xây cất miếu điện, hoạ vẽ thánh
 tượng, thành tâm phụng thờ. Vua bèn ngự điện Kinh Thiên, cho xây cất 
Dao đài ngọc khuyết, tô vẽ cung tường, trang hoàng miếu vũ, bố trí nghi 
vệ nhất nhất trang nghiêm. Các đồ tế khí cũng đều cho vẽ rồng mây, ngày 
đêm đèn hương không ngớt. Hàng tháng cứ ngày sóc (mồng một) vọng (rằm) 
vua đều trai giới  lên ngự điện coi chầu. Bên cạnh điện từ xưa có một 
ngôi chùa nguyên là nơi khi xưa Thượng thánh thường đến tu luyện thân 
tâm, chế thuốc linh đan hiệu dụng nhiệm màu, nhờ đó đắc pháp thành Tiên,
 hoá sinh bất diệt, giữa thanh thiên bạch nhật bay lên trời, về sau phát
 tích tại chùa này. Chùa được Thần Tiên bộ chúng giáng thế dực phù, núi 
sông chung đúc linh thiêng lạ đẹp, trời trăng tinh tú, Tứ đại Thiên 
vương, Bát bộ Kim cương,Nhị thập bát tú cùng bách thần tụ hội để theo 
hầu hộ vệ. Sơn tinh Thuỷ tinh, sông ngòi biển núi, trăm thú đến chầu, 
tất cả đều quy về một mối, xưa gọi là Từ Sơn cảnh Thừa Long tự ( nay đổi
 là Thiên Quang thiền tự). Nay Hùng Chiêu vương cũng đến ngự ở chùa ấy, 
truyền cho bách quan tả hữu tu sửa trong chùa, cả bốn vách chùa đều cho 
vẽ các ảnh tượng màu sắc huy hoàng, xung quanh chùa trồng cây trồng hoa 
làm phong cảnh. Nền móng đã thành, bèn truyền hịch cho các châu huyện 
nơi nào có tăng ni, đạo sĩ đến hội đồng làm lễ thì được cấp phát áo mũ, 
tụ hội đạo chúng để thuyết pháp giảng giải chân kinh, khai mở nguồn đạo.
 Đạo chúng dâng cúng hương hoa, bốn mùa thơm phức. 
Hùng
 Chiêu vương lại sai quần thần mồng một và ngày rằm dâng lễ chay  (trai 
lễ), hai ban văn võ đứng chầu nghiêm trang, vua kính cẩn đọc sớ dâng 
quả. Tháp cửu tiêu tuy cao, nhưng đèn hương dễ thấu áng mây lành; một 
tấm thành tâm cảm cách thông đến thiên địa. Cầu tất ứng, uớc nguyện đều 
được tòng tâm. Bỗng thấy một lão ông mình vàng mặt ngọc cưỡi mây bay 
xuống. Vua lạy chào rồi mời lão ông vào trong điện chùa.
Lão ông nói:
-Ta
 là thần miền Tây vực, cư trú lâu ngày ở Biển Giác, chu du trên thuyền 
Bát nhã (Trí tuệ), không nhiễm lòng trần. Nay ta đang đi phơi thuốc ở 
đường đến Niết Bàn, thấy nơi đây dân chúng lòng thành cảm cách, râm ran 
tiếng cầu kinh xướng kệ, cho nên ta cảm ứng mà đến đây. Vua mừng thầm: 
“Nhân tâm thành ý, thiên ý tất thông"
Trong
 chốc lát, cụ già lấy trong ống tay áo ra một chiếc móng rồng (long 
trảo) bằng ngọc đem trao cho vương. Liền đó một đám mây ngũ sắc hiện ra 
sáng loá cả núi rừng. Lão ông bước lên đám mây ấy mà bay lên trời.
Bấy
 giờ Hùng Chiêu vương mới biết đó là đức Phật bèn sụp quỳ lạy tạ. Ngày 
hôm ấy vua truyền cho bách quan triều thần ăn ở chay tịnh rồi lập đàn 
cúng ở chùa, cung thỉnh bách thần đến hội ở núi Thượng Linh. Lời chúc 
văn viết rằng:" Ngày hôm nay Chiêu vương tôi may mắn được gặp một vị lão
 ông tặng cho một cặp kỳ vật, không biết nên đem làm gì cho đựoc quý 
báu? Chư vị thần linh nếu hay biết nguyện xin chỉ giáo cho".
Chiêu
 vương vừa khấn xong bỗng thấy trên không rực sáng, rồi một đám mây lành
 sà xuống, Tứ đại thiên vương hiện lên giữa đàn. Thiên vương mình cao 
bảy thước, mày râu bạc trắng, đầu đội mũ hoa màu sắc rực rỡ. Chiêu vương
 lạy chào rồi mời thiên vương vào trong điện. Chiêu vương sửa sang áo mũ
 lạy chào.
Thiên vương nói: 
-Hai
 vật quý Lão ông đem tặng là của Hoàng Thiên thượng đế, vua hãy dùng vật
 ấy để chế ra một cái chuôi kiếm và một quả ấn phù, cần phải mài dũa cho
 thật sáng để làm vật quốc bảo.
Nói xong Thiên vương lại bước lên mây mà đi.
Hùng
 Chiêu vương hướng về phía đầu núi mà vái vọng. Cũng nhân việc này vua 
cho đắp thánh tượng đặt ở trong chùa để phụng thờ. Rồi đó Chiêu vương 
ngự giá về cung, sai đem khối ngọc khắc thành quả bảo ấn, đem chiếc móng
 rồng bằng ngọc tạc thành cái chuối kiếm. Trên mặt ấn khắc 3 chữ "Thiên 
Linh ấn", trên chuôi gươm cũng khắc 3 chữ "Thiên Lĩnh nhẫn"( nhẫn cũng 
là kiếm).
Từ
 đó xã tắc vô lo, triều đình yên tĩnh. Vua nghiệm ra một điều rằng lẽ 
trời rất mực huyền vi, đối với đạo trời vua dốc lòng ngày một thêm sùng 
chuộng. Một ngày kia tiết trời tạnh sáng, muôn cảnh đều tươi mới, quần 
hồng áo tía đầy thành, người và cảnh vật dịu yên trong ánh thiều quang. 
Quần thần dâng lời tâu:
-Chúng
 thần nghe nói núi Tam Đảo là nơi quần Tiên thường hay đến hội. Vua vốn 
trọng việc quỷ thần, nên một phen đến đó ngoạn thưởng.
Vua
 bèn truyền cho xa giá đi ngắm xem phong cảnh. Xe loan đến nơi, Chiêu 
vương mừng thấy đồi vóc núi gấm, lâu đài lớp lớp toả sáng ngàn tầm; suối
 biếc khe xanh lặng tung bọt sóng. Cảnh vật tranh sắc, hoa cỏ đua 
thơm. Đầu ngọn núi nhỏ có ngôi chùa cổ tên là chùa Tây Thiên dựng trên 
khoảnh núi địa thế như con rồng trắng bay sà xuống. Vua bèn cho dựng đàn
 tràng, sửa dọn lễ chay, sai quần thần dâng tiến đứng chầu. Vua làm lễ 
bái yết, mở một tràng công đức ở trong chùa, vua thân đến dâng lễ, sớm 
cầu tối nguyện trong bảy ngày bảy đêm, trai gái bốn phương kéo về dự hội
 đông như mây họp. Mọi người cùng vui thăm xem cảnh vật. Dẫu chim 
chóc chốn sơn lâm cũng được nghe kinh, tuy cá tôm dưới khe suối cũng vui
 nghe giảng kệ. Công đức viên thành, vương lại đến bên khe Thạch Bàn để 
xem tiên cảnh. Bỗng thấy trên lầu điện nguy nga khói sương lấp lánh, bốn
 phía quần hội rồng mây, mông lung lâu đài đất Phật hiện lên. Một bầu 
núi non, đúng là cảnh Bồng Lai thú vị. Vua bèn vào chùa Phù Nghi, đứng 
xem Tiên Đàn, khấn nhẩm lời cầu nguyện Hoàng Thiên thượng đế. Rồi vua 
truyền gọi triều thần văn võ đến hội chầu. Khi mọi người đã sửa sang áo 
mũ nghiêm trang, vua đọc văn khấn chúc: "Cúi nguyện Hoàng thiên cho các 
vị thần tiên giáng xuống cho Chiêu vương tôi cùng triều thần có dịp hạnh
 ngộ, thoả lòng mong uớc ba sinh".
Đọc
 chúc xong vua sụp xuống lạy tạ. Nhưng sau ba ngày vẫn không thấy bóng 
dáng của các vị Tiên. Hùng Chiêu vương hồi hộp lo lắng, nhưng không biết
 phải làm thế nào? Vua bèn đến chỗ núi Long Đầu hướng về Tiên Đàn mật 
khấn. Đêm ấy vua chiêm bao thấy một vị thần linh hiện lên bảo rằng: 
"Tây đại sơn nhân thượng [ ]
Bất kiến tâm hạ tướng.
Hội đông túc danh nhân 
Doãn cư thượng khẩu vượng
Chiêu
 vương nhận đựoc bài thơ thần bốn cấu đó xong liền xa giá về cung. Về 
đến dưới núi thấy một mỹ nhân phong tư xinh đẹp, cốt cách thanh cao đang
 đứng bên điện Cẩm Miếu xem xa giá nhà vua. Vương thích nhan sắc cô gái 
ấy, bèn lấy làm vợ. Đến khi về cung, Chiêu vương hỏi: "Nhà nàng ở đâu?" 
Cô gái đáp:
-Thiếp
 là tiên nhân giáng sinh xuống trần ở Đông Lộ làm con của Ông Trưởng. 
Thiếp đã mấy mùa hoa vịnh sử ngâm kinh, che châu giấu ngọc để đợi bậc 
anh hùng. Gần đây trộm nghe bệ hạ làm kinh động đến cả Tây Thiên, dựng 
đàn tràng muốn cầu Tiên tử. Thiếp vì thế dẫu chẳng phải xa xôi cũng đến 
xem, may duyên trời tiền định cho thiếp được gặp quân vương, xin nguyện 
phụng hầu nơi màn trướng không phụ nguyện ước ba sinh.
Chiêu
 vương nghe lời kể của mỹ nhân, biết hoàng thiên sai đưa tiên nữ đến cho
 mình. Thế là Chiêu vương sai quần thần sắm sửa sính lễ, rồi ngự xa giá 
đến nhà Trưởng Ông ở Đông Lộ xin nạp sính lễ. Rồi đó vương lên xe trở về
 kinh đô Phong Châu lập tiên nương làm vương phi chính nhất. Chưa đầy 
năm vương phi mang thai, rồi sinh một trai tư chất bẩm sinh thông minh, 
anh tài trác việt, đến tuổi trưởng thành được vua cha lập làm Thái tử 
nối quốc thống, hiệu là Hùng Vĩ vương. Về sau, Chiêu vương cùng hoàng 
phi nhờ có tiên thuật hưởng nước được 200 năm, tuổi thọ sánh ngang tuế 
nguyệt Kiều Bành, hoá sinh bất diệt. [ ]
[Đời thứ 8]
HÙNG VĨ VƯƠNG 雄暐王
Hùng
 Vĩ vương nối vị, kế thừa ngôi báu các đời tiên vương . Lúc mới nắm 
quyền, các việc chính sự thi thố kể cũng khả quan. Vương thấy lấy ấn 
kiếm đưa cho quần thần xem mà bảo: "Trẫm có hai vật báu linh thiêng, lo 
gì không trị được thiên hạ?" Từ đó thần uy của Vĩ vương càng chấn động, 
thanh thế lên cao, những kẻ gian phu trong bốn phương thảy đều vỡ mật 
run tim. Trong nước thái hoà, biên cương vô sự, thiên hạ ngợi khen là 
bậc vua hiền. Hiền Vĩ vương hưởng nước đựoc 100 năm thì băng.
Truyền đến:
[Đời thứ 9]
HÙNG ĐỊNH VƯƠNG 雄定王
ở ngôi 80 năm.
[Đời thứ 10]
HÙNG UY VƯƠNG 雄威王
ở ngôi 90 năm.
[Đời thứ 11]
HÙNG TRINH VƯƠNG 雄禎王
ở ngôi 170 năm.
[Đời thứ 12]
HÙNG VŨ VƯƠNG 雄武王
ở ngôi 96 năm.
[Đời thứ 13]
HÙNG VIỆT VƯƠNG 雄越王
ở ngôi 105 năm.
[Đời thứ 14]
HÙNG ANH VƯƠNG 雄英王
ở ngôi 99 năm.
[Đời thứ 15]
HÙNG TRIỀU VƯƠNG 雄朝王
ở ngôi 94 năm.
[Đời thứ 16 ] 
HÙNG TẠO VƯƠNG 雄造王
ở ngôi 92 năm.
Trải qua 16 đời, đều xưng hiệu là Trị Bình Kiến Phu治平建夫.
[Đời thứ 17]
HÙNG NGHỊ VƯƠNG 雄毅王
Thừa
 hưởng nhiều đời thiên hạ thái bình, vương sinh ra đam mê tửu sắc, ham 
thích du chơi, không lo sửa sang võ bị. Vua nước Thục từ xa nghe tin 
nước Nam không mấy khi dùng đến việc võ nên muốn thống nhất dư đồ, nhưng
 sợ nước Nam có cây kiếm thần nên còn do dự chưa quyết
Bấy
 giờ chúa Phụ đạo bộ Ai Lao là người có hùng tài đại lược, cũng vốn là 
tông phái của Hùng vương. Vua Thục biết thế bèn đem quân sang đánh bộ Ai
 Lao để đoạt chức chúa Phụ đạo. Bộ Ai Lao không kháng cự được bèn sai sứ
 giả sang cầu cứu với Hùng Nghị vương. Hùng Nghị vương thân đem 10 vạn 
tinh binh tiến thẳng đến dưới thành Ai Lao để cứu viện. Thục vương nghe 
tin bèn biên thư gửi cho Hùng Nghị vương, nói: "Quân Thục từ phía tây 
đến chỉ muốn bắt bộ chủ [Ai Lao] để truyền cho ngôi báu, đâu dám giơ 
càng bọ ngựa mà chống với muôn cỗ xe của nhà vua?
Nghị
 vương thấy lời lẽ trong thư như thế bèn rút quân về. Thục vương bèn bắt
 được bộ chủ [Ai Lao] đem về nước mình, gả công chúa  rồi nhường ngôi 
cho [người chủ bộ cũ của bộ Ai Lao ấy]. Thục vương sai sứ giả sang tạ ơn
 Hùng Nghị vương, xin coi nước Nam là huynh, nước Tây (Thục) là đệ, cùng
 nhau giảng hoà định ước, hai nước quan hệ đi lại với nhau. Hùng Nghị 
vương bằng lòng như thế. Từ đó nước Tây (Thục) và nươc Nam ta hưu binh. 
Hùng Nghị vương ở ngôi 160 năm, lập Thái tử là Hùng Tuyền vương.
[Đời thứ 18]
HÙNG TUYỀN VƯƠNG 雄璿王
Tuyền
 vương [  ] kế nối chính thống, gồm đủ thánh triết, tài lớn anh hùng, kế
 thừa cơ đồ lớn lao 17 đời tổ đắp tông bồi. Trong sửa võ bị, ngoài giữ 
biên cương, dốc chí hưng thịnh trị bình, giữ yên trong nước. Xa noi nền 
trị của các bậc tiền vương, kính sùng thiên địa, kính thờ quỷ thần, trời
 ban phúc lành, mến giúp quốc sự. Vì thế vương càng gia tăng sùng 
chuộng, kính tín thần nhân, truyền hịch cho thần dân trong nước sửa thêm
 đền miếu, nghi vệ trang nghiêm, ngày ngày đều dâng hương hoa tỏ lòng 
thành kính phụng thờ. Châu huyện nào có quan cai quản thì mỗi tháng đôi 
lần viên quan ấy phải đến làm lễ mật khấn bách thần cầu nguyện  cho mệnh
 mạch quốc gia dài lâu. Vương đích thân lên núi Nghĩa Lĩnh xem tôn điện 
của các tỏ tong cùng linh điện các danh tướng của lịch triều, thảy đều 
cho sửa sang tu bổ. Tăng thêm tầng cao của các dãy tường bao,lâu đài 
muôn trượng vươn cao như cột chống trời, ánh sáng bừng lên khắp bốn 
phía. Cuốn đất một bầu phong cảnh, dựng đàn yết lễ, truyền cho văn võ 
triều thần sửa sang áo mũ một màu làm lễ chầu chính. Rồi đó vương và 
quần thần lên xa giá đi thăm các cung Tiên ở Tam Đảo, Tản Viên, xem khắp
 địa thế những nơi núi non lạ kỳ phong cảnh tươi đẹp, cho dựng các điện 
miếu, mật khấn cầu phúc cầu con. Nhưng đến thời này lịch số cáo chung, 
cơ đồ họ Hùng đã đến hồi kết thúc. Tuyền vương chiêm bao thấy điềm rắn 
lớn, sau sinh được con gái hai nàng, đều là những trang thục nữa phụ đức
 trinh hiền, phong tư tuấn nhã, so ra thì Tề Khương, Tống nữ chỉ là hạng
 tầm thường, cha vua mẹ tiên, lứa duyên thật xứng hợp. Nàng chị là Mỵ 
Châu Tiên Dung công chúa, nàng em là Mỵ nương Ngọc Hoa công chúa, đựoc 
vua cha hết mức yêu quý. Mỵ Châu sau được gả cho Chử Đồng Tử ( ở xã Đa 
Hòa huyện Đông Yên phủ Khoái Châu xứ Sơn Nam ). Còn Mỵ nương công chúa, 
phụ vương có ý kín muốn tìm kẻ tuấn kiệt anh hùng nên giai kỳ chưa định.
 Vua bèn cho dựng hai ngôi lầu ở đầu núi Việt Trì, treo biển đề tên là 
Đãi hiền lâu (lầu đợi hiền) [  ], cho công chúa thứ hai đến ở lầu ấy. 
Tiếp đó truyền hịch truyền cho văn nhân tài tử khắp bốn phương đất nước 
đến hội ở kinh thành để thi tài, ai trúng tuyển sẽ được vua gả công 
chúa. Thế là bốn phương hào kiệt đều hoan hỉ nhảy múa, lũ lượt đông như 
mây họp kéo đến quốc đô. Hùng Tuyền vương đích thân ra đề ngự thí. Lúc 
bấy giờ thiên kinh vạn quyển đều nhòm xét ở cung tường Khổng Mạnh, tứ 
khoá tam truyện chẳng khiêm nhường Lục thao, Tam luợc của Tôn 
Ngô. Hiền tài trong thiên hạ đều có mặt cả ở trường thi Hội. Nhưng phần 
nhiều dược mặt này thì mất mặt kia, cùng lóc lóc trôi tuột cả, đều chưa 
phải là bậc toàn tài của đương thời. Duy có Sơn Tinh và Thuỷ tinh là hai
 bạn đồng học cùng thầy, có nhiều thuật pháp thông thiên nhập địa nhưng 
không đến kịp để dự thi. Hai ngày sau hai người mới tới kinh thành, dâng
 lời tâu lên vua:
-Bọn
 thần thẹn nỗi kém tài, sống thừa trong vương quốc. Trộm nghe thánh 
thượng lớn mở khoa thi kén rể hiền. Bọn thần đến muộn, nhưng muốn được 
thi tài để gặp vận may không lọt ra ngoài hịch chiêu hiền của thánh 
thượng.
Hùng
 Tuyền vương cả mừng, bèn đặc cách lên xe đến sông Bạch Hạc ngự thí cho 
hai người. Sơn Tinh đến ngồi ở đầu sông, Thủy Tinh trở về dưới đáy nước.
 Trong khoảnh khắc bỗng thấy mây mưa nổi lên giữa dòng, mặt sông gió 
tung bụi cuốn. Đáy biển vang tiếng động ầm ầm, trên không chớp loè loang
 loáng. Giao long, rùa, cá từng đoàn theo sóng tung lên muôn vạn lớp; 
kình, ngạc, côn, nghê nuốt muôn sóng ngàn sông. Một bầu trời đất, muôn 
trũng sóng cuồn. Trong khoảng tranh tối tranh sáng, những ai trông thấy 
đều phải rụng mật run tim. Sơn Tinh tay trái cầm quyển sách, tay phải 
cầm cây trượng, miệng niệm thần chú. Tay chỉ vào đâu nơi ấy hiện lên 
muôn quái nghìn kỳ, thảy đều do trượng đầu vung quét. Một biến một hoá 
đều là diệu pháp thần cơ, huyền vi khôn lường.
Hùng
 Tuyền vương thấy hai hiền tài đều có phép thuật như nhau, không biết 
nên chọn gả công chúa cho người nào? Vua bèn lên xe trở về cung, triệu 
Sơn Tinh và Thuỷ Tinh đến bảo:
-Trẫm
 chỉ có một viên ngọc Lam Điền, ngày trước vua Thục cầu hôn không gả. 
Nay hai khanh đều là bậc anh hùng, chưa biết phải thẩm định thế nào cho 
tiện. Vậy ai đem sính lễ đến trước thì trẫm gả cho người ấy. 
Thế là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh hẹn nhau:
-Bọn ta cùng trở về sửa soạn sính lễ, để xem ai là người đến trước? 
Thuỷ
 Tinh trở về thuỷ cung ở Động Đình, lại còn phải tìm chọn lễ vật cho 
thật tân kỳ. Sơn Tinh thì chỉ xuống lầu cầm gâỵ trúc chỉ lên trời nhẩm 
khấn xin Ngọc hoàng ban cho các vật làm sính lễ. Khấn xong liền thấy voi
 trắng chín ngà cùng các đồ châu ngọc trân kỳ từ trên trời hiện xuống. 
Sơn Tinh bèn cho xếp đặt, vừa đúng giờ Tí (nửa đêm) đã đưa các đồ sính 
lễ đến trước lầu rồng của Tuyền vương. Tuyền vương bèn gọi công chúa đến
 báo cho biết đã gả Mỵ nương cho Sơn Tinh. Sơn Tinh bèn đưa rước ngay Mỵ
 Nương về sơn động ở núi Tản Viên. Đến giờ Mão Thuỷ Tinh cũng đêm đủ lễ 
vật đến. Tuyền vương nói: "Sơn Tinh đã đem lễ đến trước rồi!".Thuỷ Tinh 
tức giân bỏ về thuỷ cung.
Hùng Tuyền vương hưởng nước 115 năm rồi nhường ngôi cho rể là Sơn Tinh Tản Viên. Sơn Tinh cố từ không dám nhận.
Tuyền vương nói:
-Cơ đồ họ Hùng đã hết, khanh có thể lên thay.
Tản
 Viên còn do dự chưa quyết thì Thục vương (là chúa Phụ đạo nước Ai Lao, 
cũng là tông phái Hùng vương) từ xa nghe tin Tuyền vương nhường ngôi cho
 Tản Viên, bèn đem quân sang đánh Hùng Tuyền vương để xâm chiếm nước Nam .
Vua
 (Tuyền vương) binh hùng tướng mạnh, Thục vương mấy lần bị đánh bại. 
Vương bảo với Thục vương: "Ta có sức thần, Thục vương không sợ sao?"
Từ
 đó Tuyền vương bỏ bễ không chăm sửa sang võ bị, chỉ đam mê tửu sắc làm 
vui. Đến khi quân Thục kéo đến tận nơi, vua vẫn còn say khướt chưa tỉnh.
 Quân lính trở giáo đầu hàng quân Thục. Hùng vương bèn đắp thành ở Việt 
Thường [  ] rộng nghìn trượng khoanh tròn như hình con ốc, gọi là Loa 
Thành. Mới đầu thành đắp đến đâu đổ đến đấy. Bỗng thấy một con rùa 
vàng trên sông từ phía đông bơi đến, xưng là Giang sứ. Hùng vương lấy 
mâm vàng đặt rùa lên đấy rồi hỏi rùa vì cớ gì mà thành đắp cứ đổ mãi? 
Rùa vàng đáp:
-Đó là do quỷ hại. Phải trừ tinh khí của nó đi thì thành tự nhiên đắp xong.
Thục
 vương đem rùa vàng đến một ngôi quán gần bên núi Thất Diệu giả làm 
khách đi đường vào ngủ trọ. Đêm ấy tinh quỷ ở bên ngoài gọi mở cửa. Rùa 
vàng hét to một tiếng, quỷ không vào được, đến khoảng gà gáy quỷ binh 
tan chạy cả. Rùa vàng bảo vua theo vết chân quỷ mà đuổi, đến núi Thất 
Diệu thì tinh khí của chúng bị thu nhốt hết. Thục vương sai đào núi lên,
 thu đựoc một cỗ nhạc khí cổ và mấy bộ xương người. Vương sai đốt 
huỷ, đổ tro xuống sông, đến khi ấy yêu khí của ma quỷ mới trừ hết.
Từ
 đó việc đắp thành của Thục vương không quá nửa tháng là xong. Rùa vàng 
từ tạ ra đi, rút một chiếc móng đưa cho Thục vương mà dặn rằng:
-Quốc
 gia yên nguy có số trời, nhung người cũng phải có phòng bị. Nếu thấy 
giặc đến thì dùng móng thiêng này làm cái lẫy nỏ mà bắn thì vương không 
có gì phải lo!
Hùng
 Tuyền vương bèn sai bề tôi là Cao Lỗ chế nỏ thần, lấy cái vuốt thiêng 
làm máy, đặt tên là "Linh hoa kim trảo thần nỗ". Sau khi đã có nỏ thần, 
Hùng Chiêu vương thu họp tàn quân, tuyển thêm dân binh, rồi sai người 
đưa thư cho Tản Viên, nói: "Thục vương đem quân sang đánh, đã chiếm đô 
thành của ta, khanh mau đem quân đến cứu viện"
Tản
 Viên bèn dẫn binh mã thẳng đến Loa Thành, dàn quân đối trận với Thục 
vương để khuếch trương thanh thế. Mấy hôm sau Tản Viên khuyên Hùng Tuyền
 vương:
-Họ
 Hùng hưởng nước kể cũng đã lâu dài. Lòng trời ắt có hạn, khiến cho Thục
 vương thừa cơ gây hấn xâm lấn nước ta. Vả lại Thục vương vốn là bộ chủ 
Ai Lao, cũng là dòng phái của tiền hoàng đế. Nay quốc thế không được 
bình thường, cũng là chuyện do tiền định. Vua có yêu riêng gì một cõi 
đất phương nam mà cưỡng lại ý trời, làm hại sinh linh? Vả lại bệ hạ và 
thần đã có phép thần tiên, không gì hơn là quay về chốn Bồng Hồ, Lãng 
Uyển, tiêu dao ở làng quê bất lão, thanh nhàn nơi gác phượng lầu rồng, 
há phải nhiễm bẩn bụi trần, vàng ngọc châu báu cũng chẳng bằng mảy lông,
 ngọc nữ tiên đồng cũng chỉ mát mắt chốc lát. Trí lự như thế mới thật là
 cao!
Tuyền
 vương cho là phải. Rồi Tuyền vương sai đưa thư nhường nước cho Thục 
vương. Thục vương sai sứ đến tạ ơn. Tuyền vương nhân đó tặng cho Thục 
vương chiếc nỏ thần, rồi trở về núi Nghĩa Lĩnh cùng với Tản Viên Sơn 
Tinh biến hoá vào cõi hoá sinh bất diệt.
Thục
 An vương đã được nhường nước, tưởng nhớ ơn đức trời biển của Hùng Tuyền
 vương bèn xa giá đến núi Nghĩa Lĩnh cho dựng Dao Đài để làm nơi quốc 
gia phụng thờ, dựng hai cột đã trong núi, chỉ tay lên trời thề rằng:
-Nguyện
 trời cao mây xám lồng lộng xét soi: nước Nam trường tồn trường tại. 
Ngôi miếu Hùng vương nơi đây nếu vua sau kế trị mà bội ước nhạt thề thì 
sẽ bị rìu trăng búa gió trừng phạt, không phụ lời thề của tiền nhân.
Đọc
 lời khấn xong, Thục vương lạy tạ rồi lên xe trở về kinh đô Phong Châu, 
cho triệu các dòng phái cành vàng lá ngọc của dòng họ Hùng ban cho danh 
hiệu Trung nghĩa huơng (làng Trung nghĩa), cấp cho dân tạo lệ hưởng dụng
 lâu dài, cấp 500 mẫu ruộng ruộng ở gò Nghĩa Lĩnh thuộc bản thôn. Lại 
cấp cho các cánh ruộng ở nhiều địa phương để thu tô thuế: trên từ Tuyên 
Quang, Hưng Hoá, dưới đến các xã ở Việt Trì hàng năm nộp hoa lợi để dùng
 vào việc đèn hương phụng thờ 18 đời vua Hùng từ Thánh tổ Cao 
hoàng đế đến các vua kế đời truyền nối.
Thục
 An vương kế nối trị nước được 59 năm thì xẩy ra việc nhà Tần lập các 
đạo quân gồm những dân phạm tội phải chạy trốn lưu vong, những người đi ở
 rể bị bán làm binh, sai Hiệu uý Đồ Thư làm tướng chỉ huy, sai Sử Lộc 
đào cừ chở lương thực, tiến sâu vào đất Lĩnh Nam, chiếm đất Lục Lương, 
đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận; lấy Nhâm Ngao làm Thái thú 
quận Nam Hải, Triệu Đà làm lệnh doãn huyện Long Xuyên (Nay ở đình Phân 
Thuỷ huyện Hưng Yên có miếu thờ). Câu đối ở miếu:
Khai vật tế nhân, tưởng Việt thành thâu túc,
Thuỳ sử nhất hoằng bích thuỷ, tiện vãn vận dĩ khải hồng đồ
Niệm Nghĩa Lĩnh khai cương,
Cạnh nhĩ sổ lý thanh sơn, lưu cao trạch nhi thành đô hội [ ]
Rồi
 đó Nhâm Ngao, Triệu Đà thừa cơ gây hấn, đem quân sang xâm lược. Quân 
Thục đóng quân ở núi Tiên Du Bắc Giang giao chiến với An vương. An vương
 lấy nỏ thần ra bắn. Triệu Đà thua trận bỏ chạy. Đà biêt Thục có nỏ 
thần, không thể đối địch đựoc, bèn cho con là Trọng Thuỷ vào làm lính 
hầu (túc vệ) trong cung An vương. Rồi Trọng Thuỷ cầu hôn vương nữ Mỵ 
Châu. Trọng Thuỷ dụ Mỵ Châu lấy trộm nỏ thần cho xem rồi tháo đổi cái 
lẫy khác. Sau đó Thuỷ về báo cho cha biết. Triệu Đà bèn phát binh đánh 
An vương. An vương không ngờ cái lẫy thiêng đã bị mất, khi ấy đang đánh 
cờ vây, cười nói: "Đà không sợ nỏ thần sao?". Quân Triệu Đà vây áp đến 
nơi, An vương lấy nỏ ra bắn, không hiệu nghiệm. An vương bẻ nỏ vứt đi 
rồi lui chạy. Thế là cơ đồ họ Hùng mất.
Từ
 Triệu Vũ đế (huý Đà) kế trị đến các triều Đinh Lê Lý Trần cho tới nay 
triều Lê ta đều chuẩn y việc phụng thờ ở cung miếu, chuẩn cho làng Trung
 Nghĩa thuộc bản xã theo đúng lệ cũ được hưởng tạo lệ, miễn trừ tô thuế 
binh dân cùng là các khoản sưu sai tạp dịch, giao cho dân bản xã phụng 
thờ cầu chúc cho mệnhj mạch quốc gia trường tồn, lưu thơm muôn thủa.
Ô hô! Thịnh thay!
Năm Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ nhất (1470), mùa xuân, tháng Ba, ngày tốt.
Hàn lâm viện trực học sĩ NGUYỄN CỐ phụng soạn.
Ngạn Xuyên NGÔ ĐỨC THỌ dịch
xong lúc 17g30 ngày 25-12-2011tại thư trai xóm Núi Trúc (Đội Cấn -Hà Nội)
PHẦN II. VĂN BẢN
1. Đã lâu quá rồi, bây giờ đọc lại Hùng vương ngọc phả
 trong lòng tôi bỗng trào dâng một cảm xúc gì đó tựa như là ngỡ ngàng. 
Không phải chỉ mình tôi, các nhà nghiêncứu ở Viên Hán Nôm hẳn đều quen 
thuộc với các văn bản thần tích ngọc phả và các thư tịch cổ viêt về các 
đền chùa của nước ta. Riêng tôi cũng có một kỷ niệm là tôi đã cùng một 
vài bạn đồng nghiệp biên soạn đựoc một cuốn tra cứu về các di tích lịch 
sử văn hoá Việt Nam . Gian khổ nhưng cũng thật là vui vì có làm như 
vậổitong mấy năm đó chúng tôi mới có điều kiện đọc đi đọc lại nhiều sách
 vở tài liệu liên quanđến đề tài này. Không phải chỉ đối với một di 
tích, khi viết về môpọt di tícacsau lại lại gặp lại tư liệu về di tích 
trước và trước đó nữa. Hùng vương ngọc phả là một tài liệu như vây. Vì 
HVNP rất quan trọng cho nên người soạn văn bia thần tích gia phả thường 
trích dẫn. Mà sự dẫn dụng đó phần nhiều là thích đáng hợp lý. Nếu nói 
gia phả là bộ sử của một nhà, một dòng họ, thì cuốn HVNP này quả thât là
 cuốn phả của cả dân tộc Việt Nam ta. Cái gì cũng có hai mặt: Ý nghĩa 
thì quan trọng như thế nhưng loại thần tích ngọc phả ít nhiều cũng bị 
ảnh hưởng bởi những sự tích truyền thuyết hoang đường. Người mình bây 
giờ không phải không thích chuyện hoang đường, nhưng phải là cái gì thật
 lạ kỳ như Harry Potter chẳng hạn, còn chuyện Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, 
chuyện Thánh Dóng dánh giựac Ân v.v… thì từ thời tiểu học học mãi rồi! 
Cho nên dù là cuốn phả dân tộc thật đấy, nhưng có vẻ như là “kính nhi 
viễn chi”! Rốt cuộc là, từ hồi đầu thảo luận về thời Hùng vương những 
năm 70 thế kỷ trước đến nay sau hơn 40 năm, nhân một bài viết cần tìm 
đến HVNP, tra trên mạng không thấy một bản HVNP nào cả nguyên văn và bản
 dịch.Có thể có ai đó dã dịch và xuất bản gộp vào trong một tập nào đó 
với tên khác chăng? Cũng có thể như thế, nhưng tôi tin mình không lầm. 
Có một nhà nghiên cứu khá quen thạo đề tài này, tôi tuy chưa gặp mặt, 
nhưng đã có dịp có vài trao đổi ngắn với ông trên mạng. Tôi rất thú vị 
vì biết ông rât thú vị đối với việc tôi đang làm, đến mức bản dịch tôi 
thực hiện trên blog đựoc đoạn nào là ông tải ngay về trang của ông đoạn 
ấy. Hôm qua trước Noel mấy tiếng tôi làm xong bản dịch HVNP, sáng nay 
vào thăm trang của ông đã thấy ông loát đủ kèm theo một Comment nguyên 
văn như sau:
 
Ngọc phả Hùng Vương
 hiện lưu tại Bảo tàng Hùng Vương, Phú Thọ. Ngọc phả gồm 21 tờ, 42 trang
 chữ Hán. Tổng cộng gần một vạn chữ. Sau hơn nửa tháng (từ ngày 9 - 24. 
12. 2011) miệt mài, cần mẫn, GS Ngô Đức Thọ đã dịch xong. Trong khoảng 
thời gian đó, cứ mỗi lúc ông dịch xong đoạn nào, tôi lại tải về đăng lên
 mạng của tôi đoạn ấy. Tôi đã từng 
nhiều lần sưu tầm nhưng chưa có một bản dịch Ngọc phả nào cho hoàn 
thiện. Thường thì người ta dịch từng đoạn , ai cần đoạn nào phục vụ cho 
công tác nghiên cứu của mình thì dịch đoạn ấy. Đây là bản dịch đầy đủ nhất cho đến hiện nay mà tôi biết được. Một lần nữa, xin ghi công và cảm ơn GS Ngô Đức Thọ 
                     (Phan Duy Kha- http://vn.360plus.yahoo.com/phan_duykha?l=f&id=1)
Người nghiên cứu đối với nhau, gửi cho những nhận xét chân thành đúng lúc như thế quả thật như cho nhau một thang thuốc bổ.
Đó là ông 
Phan Duy Kha xác minh cho tôi đựoc một điều: Bao nhiêu lâu rồi, tghế mà 
chúng ta chưa có một công trình biên khảo nào về ngọc phả Hùng vương 
được công bố.
Bây giờ toi
 dã làm xong đựoc một việc nhỏ đó rồi, và ngay từ đầu tôi dã đưa lên 
mạng để mọi người ai cần tham khảo dẫn dụng thì có thể lưu lại. Con cháu
 của các vua Hùng thì phải chuyển cho nhau cuốn phả về sự nghiệp dựng 
nước của các cụ khi xưa.
Có điều là 
tôi hiện nay chỉ mới có đựoc 2 văn bản (một của Viện NCHN, một của 
TVQG), cũng vì việc chung cả, hẳn còn nhiều vị có các bản Hùng vương 
ngọc phả khác. Nếu quý vị vui lòng gửi cho tôi một bản copy (bằng giấy 
–qua Bưu điên, hoặc bằng ảnh qua email -Địa chỉ ghi ở dưới) để tôi tập 
hợp hiệu khảo, giới thiệu để mọi người cùng nghiên cứu thì rất tốt cho 
học thuật.
2.Văn bản Hùng vương ngọc phả:
Theo Nguyễn Khắc Xương hiện có 3 văn bản Hùng vương ngọc phả:
1-"Nam
 Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền", còn gọi là Cổ Việt Hùng thị thập
 bát thế thánh vương ngọc phả cổ truyền, soạn năm Thiên Phúc nguyên niên
 (986 - Lê Đại Hành), bản sao vào triều Khải Định năm thứ 4 (1919), Kỷ 
Mùi, tháng 6, ngày 25.
2 
-“Hùng Vương ngọc phả thập bát thế truyền, soạn năm Hồng Đức nguyên niên
 (1470 - Lê Thánh Tông): " Hồng Đức nguyên niên, Nhâm Thìn xuân tam 
nguyệt cốc đán, Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyên Cố phụng soạn", năm 
Hoằng Đình nguyên niên (1619- Lê Kính Tông) sao lại: Hoàng triều Hoằng 
Định Nguyên niên, Cánh tý đông thập nguyệt cát nhật, Hàn lâm thị độc 
Nguyễn Trọng trùng đính, Lễ phiên Lê Đình Hoan thừa sao".
3 - Hùng Vương sự tích ngọc phả cổ truyền, Hàn lâm học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572 - Lê Anh Tông).
Về mấy thông tin nói trên, đối với văn bản thứ hai ông ghi không đúng nguyên văn tên của văn bản: Cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế thánh vương ngọc phả cổ truyện.HaiÔng Xương chỉnh lại tên sách như thế phải chăng để cho hợp với cách đọc " thế truyền". Nhân thấy  thư tịch Hán Nôm của ta có một số cuốn chép thần tích truyền thuyết lấy tên sách là Ngọc bảo cổ truyện, Ngọc phả cổ lục
 là tác giả nói đến phong cách như truyện kể. Văn bản thứ 1 ông đọc " 
vĩnh truyền" thì được, còn văn bản 2 và 3 tôi đọc là "truyện" chứ 
không đọc "truyền" là vì vậy. Một chi tiết khác: Hoằng Định nguyên niên 
là năm 1601 chứ không phải “1619 –Lê Kính Tông” như ông Xương ghi.
Đối với văn
 bản thứ nhất ông Xương chưa trình bày hay chứng minh đặc điểm của nó, 
chỉ căn cứ vào niên đại ghi trên sách là Thiên Phúc nguyên niên (986) đã vội coi đó là “là bản cổ nhất và có lẽ cũng là bản ngọc phả đầu tiên mà sự tích các vua Hùng được soạn thành văn bản” thì rõ ràng là thiếu thuyết phục. Chính vì vậy Ban Biên Tập mới có ghi chú:
“Niên
 đại các bản Thần tích, Ngọc phả là một vấn đề còn phải nghiên cứu thêm.
 Tác giả tham luận chưa nói rõ nơi tàng trữ văn bản cũng như xuất xứ các
 bản dịch. Chúng tôi tạm bằng lòng với tham luận hiện có (B.B.T)” [ ]
[ ] Thông báo Hán Nôm học 1995 ( tr.461-467).
[ ] Thông báo Hán Nôm học 1995 ( tr.461-467).
3. Bản Hùng vương ngọc phả (HVNP) của Bảo tàng Phú Thọ:
Văn bản tôi dùng để làm bản dịch này là một bản của Viện NCHN sao chụp lại từ nguyên bản cuốn Hùng đồ thập bát diệp Thánh vương ngọc phả cổ truyện của Ty Văn hoá Phú Thọ, nay dã chuyển cho Bảo tàng Hùng vương Phú Thọ. Bản này gồm 21 tờ giấy chép hai mặt x 2 trang, trang 10 dòng x 21 chữ, đúng số tờ như đã ghi ở cuói sách:“ 以上共貳十壹張dĩ
 thượng cộng nhị thập nhất trang/ Ở trên cộng là 21 tờ giấy” Không kể 2 
tờ đầu, một tờ chụp lại trang 1 bên trong đưa ra làm bìa. 1 tờ là bản 
khai của xã XuânLũng huyện Sơn Vi trấn Sơn Tây về các thửa ruộng thờ và 
quy định lễ vật (xôi, lợn dâng cúng hàng năm)
Tờ 1a: Tên sách: Hùng đồ Hùng đồ thập bát diệp Thánh vương ngọc phả cổ truyện 雄圖十八葉聖王玉譜古傳Tờ 1b: Năm thực hiện việc hiệu đính và sao chép lại từ bản cổ:    皇朝弘定元年庚子冬十月吉日翰林侍讀阮仲重訂
           Hoàng triều Hoằng Định nguyên niên Canh Tí đông thập nguyệt cát nhật. Hàn lâm thị độc Nguyễn Trọng trùng đính
           Năm Canh Tí niên hiệu Hoằng Định thứ nhất mùa đông, tháng 10 (11-1601), ngày tốt.
           Sao bản lưu tại Quan lang phụ đạo Hùng vương tôn điệt phụ truyền tử kế dữ Nghĩa Động xã  trưởng tạo lệ hộ nhi Trung Nghĩa hương giám thủ
           (Bản
 sao lưu tại nhà Quan lang phụ đạo cháu chắt của vua Hùng, cha truyền 
con nối, cũng xã trưởng tạo lệ hộ nhi TrungNghĩa hương giám thủ.
           Lễ phiên Lê Đình Hoan thừa sao.
Chữ viết: Bản
 sao được thực hiện bởi chuyên gia thư tả Lê Đình Hoan làm việc ở Lễ 
phiên ( ban ở phủ chúa Trịnh tươngứng chức năng củ bộ Lễ). Toàn bộ bản 
chép  cùng một kiểu chữ của một người. Đó là kiểu chữ Lệ viết nghiêng rất đặc trưng cho thư pháp triều Lê.
Chữ Lệ cũng bắt nguồn từ chữ Triện nhưng có những cải tạo quan trọng, do Trình Miệu 程邈một
 người tù làm nô lệ thời Tần Thuỷ Hoàng sáng tạo cuối Tần phát triển đầu
 Hán, sau trở thành một trong bốn thể chữ chính của Hán tự (chính[tức 
Khải], thảo, lệ, triện), là thể chữ trang trọng, có kết cấu hợp lý, được
 số đong cho là đẹp. Chữ lệ ngay cả hình thức chữ “đứng” (trực) của nó 
vốn có đặc điểm hơi nghiêng một tí về bên phải; nhưng cũng có loại 
nghiêng nhiều hơn (thiên). Trung Quốc chủ yếu dùng loại chữ lệ đứng (xem
 ảnh nền đen). 

Trên ảnh đã dẫn chúng ta thấy chữ lệ đứng của Trung Quốc
(nền đen bên phải) và chữ 
lệ nghiêng của văn bản HVNP chúng tôi đang nghiên cúư. Có thể tỷ lệ chưa
 cao, nhưng chúng ta có cứ liệu cho thấy từ đầu Lê sơ (thế kỷ XV) và Lê 
trung hưng chữ lệ nghiêng đã đựoc dùng để viết các tài liệu của triều 
đình ( x. ảnh sắc chỉ năm Đại Hoà thứ 9/  )  Vì
 văn bản có ít nên chưa kết luận được Lê sơ về trước có thông dụng chữ 
lệ nghiêng hay không, nhưng thời Lê trung hưng thì lệ nghiêng là loại 
chữ đựoc nhiều người ưa thích. Thời Tây Sơn và đầu Nguyễn thỉnh thoảng 
cũng còn, nhưng nói chung ít gặp hơn trước.Vì thế các chuyên gia Hán Nôm
 phần nhiều đều nhận rằng loại chữ lệ nghiêng này mang đặc điểm niên đại
 các thế kỷ 15 -18 khá rõ. Có một đặc điểm nữa là loại chữ này hiếm, ít 
người biết và nhất là khó viết, vì thế hầu như rất ít khả năng bị làm 
giả.  
Ở bản ảnh trích ảnh dẫn trên, toi đã thể hiện đặc điểm chữ lệ nghiêng của văn bản HVNP, do đó chúng ta có cơ sở khoa học để xác định nguyên bản HVNP do Bảo tàng Phú Thọ lưu giữ đích thực là một thư tịch được sao chép năm vào năm Hoằng Định 1 (1601) tức là năm đầu tiên của thế kỷ XVII cách nay 410 năm.Mừng vì ta còn giữ được bản Ngọc phả ấy khá cổ, nhưng lại hơi chớm lo, bởi vì nội dung của nó thì chúng ta đã có nhiều bản sao rồi, nhưng lo mình bỏ công chứng minh bản ấy cổ quý lại "vẽ đường cho hươu chạy", biết đâu có ngày "hươu" bị chạy mất chăng?
Trên tôi có nói hiện tôi chỉ có 2 văn bản mà tôi nghĩ có thể ta vẫn còn nhiều bản hơn. Trong lúc chờ đợi, tôi lục tìm trên mạng thấy đựoc một tư liệu quý và nghĩ là ở nước ngoài như Nhật, Mỹ, Pháp cũng có thể có vài văn bản. GS Nhật Bản có thể đã sớm đọc HVNP- có thể chính là bản tôi đang dùng làm việc tai đây (hoặc có nội dung khá tương tự) bởi vì trên mục "Hồng Bàng", Wikipedia có lập một tên hiệu các vua Hùng căn cứ vào tài liệu của GS Nhật Bản Nham Thôn Thành Doãn 岩村成允[ ]khá nhất trí với bản tôi lập. Sau đây là bảng so sánh bản thế hệ các thế hệ vua Hùng do tôi lập (đã đặt trước bản dịch) và bản của Nham Thôn.
Ở bản ảnh trích ảnh dẫn trên, toi đã thể hiện đặc điểm chữ lệ nghiêng của văn bản HVNP, do đó chúng ta có cơ sở khoa học để xác định nguyên bản HVNP do Bảo tàng Phú Thọ lưu giữ đích thực là một thư tịch được sao chép năm vào năm Hoằng Định 1 (1601) tức là năm đầu tiên của thế kỷ XVII cách nay 410 năm.Mừng vì ta còn giữ được bản Ngọc phả ấy khá cổ, nhưng lại hơi chớm lo, bởi vì nội dung của nó thì chúng ta đã có nhiều bản sao rồi, nhưng lo mình bỏ công chứng minh bản ấy cổ quý lại "vẽ đường cho hươu chạy", biết đâu có ngày "hươu" bị chạy mất chăng?
Trên tôi có nói hiện tôi chỉ có 2 văn bản mà tôi nghĩ có thể ta vẫn còn nhiều bản hơn. Trong lúc chờ đợi, tôi lục tìm trên mạng thấy đựoc một tư liệu quý và nghĩ là ở nước ngoài như Nhật, Mỹ, Pháp cũng có thể có vài văn bản. GS Nhật Bản có thể đã sớm đọc HVNP- có thể chính là bản tôi đang dùng làm việc tai đây (hoặc có nội dung khá tương tự) bởi vì trên mục "Hồng Bàng", Wikipedia có lập một tên hiệu các vua Hùng căn cứ vào tài liệu của GS Nhật Bản Nham Thôn Thành Doãn 岩村成允[ ]khá nhất trí với bản tôi lập. Sau đây là bảng so sánh bản thế hệ các thế hệ vua Hùng do tôi lập (đã đặt trước bản dịch) và bản của Nham Thôn.
[]岩村成允. 《安南通史》, 許雲樵譯. 新加坡: 星洲世界書局有限公司(1957)
-Có thể thấy bản NĐT và bản Nham Thôn gần như là trùng khít cả về thứ tự các thế hệ: Chỉ tính từ Kinh Dương vương bắt đầu đi làm vua phương Nam. Số đời là 18 đúng như các sử sách khác vẫn chép. Các tên hiệu chữ Hán đều hoàn toàn giống nhau. Cách đọc chỉ khác nhau 1 trường hợp: NĐT đọc Việp vương, Nham Thôn đọc Diệp vương: Chữ  曄 (yè) vẫn thường có2 cách đọc: Việp/ Diệp (NĐT đọc Việ p như âm vẫn quen dùng như trong tên tước của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc). Bản tiếng Anh của Wikipedia đọc là Hoa - chữ ấy không ít người đọc nhầm là chữ Hoa vì bên cạnh có chữ Hoa. Cả hiệu của Hùng vương thứ 18 Hùng Tuyền vương bản Nham Thôn cũng viết và đọc đúng là Tuyền vương (như NĐT đọc), trên bảng đã lập ghi "Tuyên" chắc do đánh máy sót dấu. Bản tiếng Anh của Wiki thì vẫn như không ít người đọc nhầm chữ 璿 [xuán] là Duệ vương. Tiếc rằng không ít bài viết về Hùng vương trên sách báo hiện nay vẫn cứ viết "Hùng Duệ vương" bất chấp xuất xứ!
Như vậy qua so sánh sơ bộ với bản Nham Thôn chúng ta có cơ sở để tin rằng các văn bàn HVNP thuộc hệ Hồng Đức nguyên niên (1470) hiện còn khá tương đồng với nhau. Những sai khác tất không tránh khỏi, nhưng chủ yếu có thể chỉ ở chi tiết và văn tự.
(Tuyền và Duệ rất dễ nhầm, tôi đã lập 1 bản khảo âm tự của liên quan đến chữ 璿 để mọi người tham khảo, x. ảnh đặt sát dưới)
LỜI NGƯỜI DỊCH:
Đọc HVNP là chúng ta đã bước vào thế giới của những thần thoại huyền tích kỳ vĩ không chỉ liên quan đến thời kỳ lập quốc dựng nước mà còn xa hơn nữa đến cội nguồn tổ tiên của dân tộc. Các địa danh nhân danh trong HVNP sử sách đã viết nhiều bàn nhiều nhưng hầu như cũng chưa vén được bao nhiêu lớp sương mù nhiều ngàn năm. Vì vậy, dịch xong HVNP người dịch nhận ra rằng ở đây không có ngôn ngữ cho nguời chú thích khảo chứng để chứng minh những gì không đúng với lịch sử như chúng ta biết ngày nay. Thay vào đó trong cuộc đi như hành trình của chàng Ôđixê đi tìm dân tộc mình, rải rác ta có thể nhận ra những điều tưởng hoang đường lại được xác nhận ở một nguồn tin độc lập nào đó. Tôi muốn giới thiệu ở đây vài trường hợp:
Đọc HVNP là chúng ta đã bước vào thế giới của những thần thoại huyền tích kỳ vĩ không chỉ liên quan đến thời kỳ lập quốc dựng nước mà còn xa hơn nữa đến cội nguồn tổ tiên của dân tộc. Các địa danh nhân danh trong HVNP sử sách đã viết nhiều bàn nhiều nhưng hầu như cũng chưa vén được bao nhiêu lớp sương mù nhiều ngàn năm. Vì vậy, dịch xong HVNP người dịch nhận ra rằng ở đây không có ngôn ngữ cho nguời chú thích khảo chứng để chứng minh những gì không đúng với lịch sử như chúng ta biết ngày nay. Thay vào đó trong cuộc đi như hành trình của chàng Ôđixê đi tìm dân tộc mình, rải rác ta có thể nhận ra những điều tưởng hoang đường lại được xác nhận ở một nguồn tin độc lập nào đó. Tôi muốn giới thiệu ở đây vài trường hợp:
1. Về nước Việt Thường:
Người dịch muốn gửi đến bạn đọc vài điểm đáng lưu ý:
1. HVNP nói Kinh Dương vương
2.HVNP 2 lần nói đến nước Việt Thường:
Lần thứ nhất:
Lần thứ nhất:





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét