Thứ Năm, 14 tháng 6, 2012

BIA ĐỀN THỜ TÀO QUẬN CÔNG NGÔ PHÚC VẠN







Bia nhà thờ danh nhân Ngô Phúc Vạn tại thôn Thổ Sơn Thị trấn Nghèn huyện Can Lộc, tiỉnh Hà Tĩnh.

Bia 1 mặt, khổ 150 x 100cm, trán bia chạm rồng chầu mặt nguyệt. Diềm bia khắc hoa lá, cánh sen. Toàn văn chữ Hán, chữ khắc chân phương, khá trang trọng. Có chữ húy thời Lê là Thành và Đề. Bia dựng năm KhánhĐức 3 (1651) thời Lê. Bia có bản rập tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, số 19304.

Nguyên văn chữ Hán:

吳 相 公 堂 記

揚 武 威 勇 功 臣, 特 進 輔 國 上 將 軍, 中 軍 都 督 府 左 都 督, 少 尉, 漕 郡 公 ,上 柱 國 吳 令公 石 記。

嘗 聞 : 大 臣 德 被 生 民, 功 施 社 稷, 必 勒 金 石, 以 耀 後 世, 而 垂 無 窮, 豈 止 榮 一 時, 夸 一鄉 而 已 哉。

茲 惟: 令 公 姓 吳, 名 福 澫,驩 州 石 河 瓜 牙 鄉 .厥 先 始 祖 諱 渃, 乂 安 衛 正 管 領。 高 高祖 諱 海, 太 原 鎮 都 總 兵 同 知。 高 祖 諱 河, 安 王 府 主 簿, 贈 純 忠 侯 . 曾 祖 諱 清, 乂 安處 都 總 兵 使, 永 祿 侯, 贈 太 保. 顯 祖 諱 澄, 輔 國 功 臣, 弼 義 營 西 軍 都 督 府 左 都 督, 少保, 世 郡 公, 加 封 太 保. 顯 考 諱 瀞,協 謀 揚 武 功 臣, 南 軍 都 督 府 左 都 督, 泗 郡 公, 加 封太 保.慶 善 積 休 休, 公 侯 生 袞 袞。

令 公 丁 丑 年 生, 才 兼 文 武 ,會 契 風 雲。庚 子 年 令 公 年 二 十 四, 奮 智 扶 運 ,有 朝 臣 僉議, 祇 受 揚 武 威 勇 功 臣, 特 進 輔 國 上 將 軍, 殿 前 左 校 點, 祥 溪 侯。

戊 午 年 尚 郡 主 鄭 氏玉淵, 襲食 邑。甲 子 年 陞 錦 衣 衛 署 衛 事,漕 郡 公。丙 寅 年 督 兵 擒首 偽 乾 統 ,擢 中 軍 都 督 府 都 督 僉 事。 己 巳 年 陞 都 督 同 知, 辛 未 年 加 陞 中 軍 都 督府 左 都 督, 座 政 堂, 參 議 國 家 事 務。 癸 酉 年 進 兵 略 定 合 後, 威 名 太 震。 甲 戌 年 榮陞 少 保. 庚 辰 年 設 策 俘 逆 賢 郡, 加 陞 少 傅 ,奉 鎮 全 驩 ,中 外 賴 以 安, 朝 廷 倚 為 重。 乙酉 年 陞 少 尉。 丙 戌 年 奉 開 中 銳 軍 營。 出 則 秉 杖 旄 鉞 ,保 安 疆 土, 為 萬 里 長 城。入則 雍 容 廊 廟, 施 設 政 事, 為 當 代 碩 輔。 措 人 心 於 泰 山 之 固, 奠 國 勢於 磐 石 之 安。 勳垂 竹 帛, 祿 富鼎 鐘, 彩 益 光 門 戶 ,慶 永 留 子 孫 。

長 子 福 添, 馭 軍 嚴 明。年 十 三 將 兵 執 逆 克 遵, 擢 陞 巖 郡 公 。年 十 八 以 安 內 有 功, 加陞 效 力 四 衛 督。 第 二 男 福 澢, 陞 參 督, 東 江 侯。 第 三 男 福 洽 ,摧 該 官 真 奇 侯。 至 第四 男 謙 恭 侯 福 津。 第 五 男 綿 祿 侯 福 護。 第 六 男 兼 祿 侯 福 沺。第 七 男 豪 美 侯 福 。第 八 男 福 潽,並 登 將 壇 ,壘 蒙 國 寵。 以 至 諸 女, 各 配 豪 華, 堂 耀 圭 裳, 庭 喧 車 馬. 大 榮盛 ,大 繁 衍。

于 斯 之 時, 令 公 年 七 十 五, 首 垂 黃 髮, 色 潤 青 春. 扶 持 才 挺, 斗 橫 壽 考, 福 如 嶽 屹 ,閒暇 之 餘, 志 娛 詩 書, 情 陶 麴 蘖. 籛 喬 之 歲 月, 自 在 逍 遙, 深 求 聖 道 僊 蹤 , 用 造 福 庵 寶閣 。 仍 留 蔡 河 肥 田 三 十 畝, 敬 奉 三 才 首 君. 既 而 留 華 籠 養 田五 箇 畝,以 報 十 恩 慈乳 。 再 留 付 土 山 鄉, 舊 一 鄉 ,敬 田 二 十 畝, 以 供 嚴 親 祭 祀 . 并 留 付 奇樂 里 仁 四 里 義田 三 十 畝, 以 謹後 事 奉 承. 欲 傳 萬 世 , 遨 余 為 文。

余 惟 夫:有 德 者,天 必 厚 其 福。 令 公 以 將 家 子, 文 事 武 備 , 素 講 於 庭, 適值 雷 雲 時節, 翊 扶 日月, 整 頓 乾 坤, 威 望 隆 重, 位 兼 將 相, 為 國 元 老。 豊 功 盛 德, 永 紀 旂常。又能 置 諸 敬 田 祭 田 養 田 義 田, 留 付 鄉 民, 以 奉 千 年 之 香 火. 用 心 如 是, 是 知 令 公 以 忠報 國, 以 忠 厚 傳 家, 宜 乎 福 祿 上 饗 宗 廟, 下 延 子 孫, 遠 及 苗 裔, 世 世 忠 貞, 世 世 爵 祿,與 國 家 同 富 貴,與 天 地 同 其 長 久, 盛 矣 哉。

余 樂 公 之 志,有 成 述 為 讚 辭, 遂 鐫 于 石,以 壽 其 傳,云。

讚 曰 :

驩 州 巨 鎮

石 縣 名 鄉

將 門 挺 出

令 公 是 當

龍 雲 千 載

魚 水 一 堂

匡 扶 力 任

征 伐 威 揚

功 超 武 惠

德 冠 汾 陽

位 隆 公 陟

勢 奠 國 疆

名 垂 竹 帛

功 衍 泰 黃

寵 承 晉 錫

道 用 謙 光

田 留 奉 事

福 保 綏 將

子 孫 貴 盛

天 地 久 長。



慶德 三 年 孟 夏 月 穀 日。


賜 丁 丑 科 第 一 甲 進 士 及 第 陪 從 特 進 金 紫 榮 祿 大 夫 禮 部 右 侍 郎 芳 祿 伯 柱 國紹 天 東 山 芙 留 阮 淳 夫 撰。

內 營 書 記 工 部 工 程 員 外 郎 修 慎 少 尹 文 明 子 河 華 石 河 瓜牙 武光 大稾 撰。

內 營 勾 稽 管 知 占 侯 特 進 金 紫 榮 祿 大 夫 錦 衣 衛 副 斷 事 文 顯 子 河 石 白 池 阮 壽延 書。 篆匠局弘 信 大 夫 明 盛 荊門 宜 陽 古 齋 仁 和 鋻 字 。

Bản dịch sau đây dịch theo thác bản văn bia №19304 của Viên NCHán Nôm.Bia hiện vật có đã mờ mòn nhiều chỗ.

Phiên âm:

NGÔ TƯỚNG CÔNG ĐƯỜNG KÝ

Dương vũ uy dũng công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Trung quân đôđốc phủ Tả đô đốc Thiếu úy Tào Quận công, Thượng trụ quốc Ngô lệnh công thạch kí.

Thường văn: Đại thần đức bị sinh dân, công thí xã tắc, tất lặc kim thạch dĩ diệu hậu thế nhi thùy vô cùng, khải chỉ vinh nhất thời, khoa nhất hương nhi dĩ tai.

Tư duy:Lệnh công tính Ngô danh Phúc Vạn, Hoan Châu Thạch Hà Trảo Nha hương. Quyết tiên thủy tổ húy Nước, Nghệ An vệ chính Quản lãnh. Cao cao tổ húy Hải, Thái Nguyên trấn Đô tổng binh đồng tri. Cao tổ húy Hà, An Vương phủ Chủ bạ, tặng Thuần Trung hầu. Tằng tổ húy Thanh, Nghệ An xứ Đô tổng binh sứ Vĩnh Lộc hầu, tặng Thái bảo. Hiển tổ húy Trừng, Phụ quốc công thần Bật Nghĩa doanh Tây quân đô đốc phủ Tả đô đốc Thiếu bảo Thế Quận công, gia phong Thái bảo. Hiển khảo húy Tĩnh, Hiệp mưu dương vũ công thần, Nam quân đô đốc phủ Tả đô đốc Tứ Quận công, gia phong Thái bảo. Khánh thiện tích hưu hưu, công hầu sinh cổn cổn.

Lệnh công Đinh Sửu niên sinh, tài kiêm văn võ, hội khế phong vân. Canh Tý niên lệnh công nhị thập tứ, phấn trí phù vận, hữu triều thần thiêm nghị, chi thụ Dương vũ uy dũng công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, điện tiền Tả hiệu điểm Tường Khê hầu. Mậu Ngọ niên thượng Quận thượng chúa Trịnh Thị Ngọc Uyên, tập thực ấp. Giáp Tý niên thăng Cẩm y vệ thự vệ sự, Tào Quận công. Bính Dần niên đốc binh cầm thủ Ngụy Càn Thống, trạc Trung quân Đô đốc phủ Đô đốc thiêm sự. Kỷ Tỵ niên thăng Đôđốc Đồng tri. Tân Mùi niên gia thăng Trung quân Đô đốc phủ Tả đô đốc, tọa chínhđường Tham nghị quốc gia sự vụ. Quý Dậu niên tiến binh lược định hợp hậu, uy danhđại chấn. Giáp Tuất niên vinh thăng Thiếu bảo. Canh Thìn niên thiết sách nghiệt nghịch Hiền quận, gia thăng Thiếu phó, phụng trấn toàn Hoan, trung ngoại lại dĩ an, triều đình ỷ vi trọng. Ất Dậu niên thăng Thiếu úy, Bính Tuất niên phụng khai Trung nhuệ quân doanh. Xuất tắc bỉnh trượng mao việt, bảo an cương thổ, vi vạn lí trường thành. Nhập tắc ung dung lang miếu, thi thiết chính sự, vi đương đại thạc phụ, thố nhân tâm ư Thái sơn chi cố, điện quốc thế ư bàn thạch chi an, huân thùy trúc bạch. Lộc phúc đỉnh chung, thái ích quang môn hộ, khánh vĩnh lưu tử tôn.

Trưởng tử Phúc Thiêm ngự quân nghiêm minh. Niên thập tam tướng binh chấp nghịch Khắc Tôn, trạc thăng Nham Quận công. Niên thập bát dĩ an nội hữu công, gia thăng Hiệu lực tứ vệ Đề đốc.

Đệ nhị nam Phúc Đang, thăng Tham đốc Đông Giang hầu.

Đệ tam nam Phúc Hiệp, trạc cai quan Chân Kỳ hầu .

Chí đệ tứ nam Khiêm Cung hầu Phúc Tân.

Đệ ngũ nam Miên Lộc hầu Phúc Hộ.

Đệ lục nam Kiêm Lộc hầu Phúc Điền.

Đệ thất nam Hào Mỹ hầu Phúc Liêu.

Đệ bát nam Phúc Phổ tịnh đăng tướng đàn, lũy mông quốc sủng.

Dĩ chí chư nữ, các phối hào hoa, đường diệu khuê thường, đình huyên xa mã, đại vinh thịnh, đại phồn diễn.

Vu tư chi thời, Lệnh công niên thất thập ngũ, thủ thùy hoàng phát, sắc nhuận thanh xuân, phù trì tài đĩnh đẩu, hoành thọ khảo, phúc như nhạc ngật. Nhàn hạ chi dư, chí ngu thi thư, tình đào cúc nghiệt. Tiền kiều chi tuế nguyệt, tự tại tiêu dao, thâm cầu Thánh đạo Tiên tung, dụng tạo Phúc Am bảo các. Nhưng lưu Thái Hà phì điền tam thập mẫu, kính phụng tam tài thủ quân. Ký nhi lưu Hoa Lung dưỡng điền ngũ cá mẫu, dĩ báo thập ân từ nhũ. Tái lưu phó Thổ Sơn hương Cựu Nhất hương kính điền nhất thập mẫu, dĩ cúng nghiêm thân tế tự; tính lưu phó Kỳ Lạc, Lý Nhân tứ lý nghĩa điền tam thập mẫu, dĩ cẩn hậu sự phụng thừa. Dục truyền vạn thế, yêu dư vi văn.

Dư duy phù: Hữu đức giả, thiên tất hậu kì phúc. Lệnh công dĩ tướng gia tử, văn sự vũ bị, tố giảng ư đình, thích trị lôi vân thời tiết, dực phù nhật nguyệt, chỉnh đốn càn khôn, uy vọng long trọng, vị kiêm tương tướng, vi quốc Nguyên lão, phong công thịnh đức, vĩnh kỉ kì thường. Hựu năng trí chư kính điền, tế điền, dưỡng điền, nghĩa điền lưu phó hương dân, dĩ phụng thiên niên chi hương hỏa. Dụng tâm như thị, thị tri Lệnh công dĩ trung thành báo quốc, dĩ trung hậu truyền gia, nghi hồ phúc lộc thượng hưởng tông miếu, hạ diên tử tôn, viễn cập miêu duệ, thế thế trung trinh, thế thế tước lộc; dữ quốc gia đồng kỳ phú quý, dữ thiên địa đồng kỳ trường cửu. Thịnh hĩ tai.

Dư lạc công chi chí, hữu thành thuật vi tán từ, toại thuyên vu thạch, dĩ thọ kì truyền vân.

Tán viết:

Hoan Châu cự trấn Thạch huyện danh hương

Tướng môn đỉnh xuất Lệnh công thị đương

Long vân thiên tải Ngư thủy nhất đường

Khuông phù lực nhậm Chinh phạt uy dương

Công siêu Vũ Huệ Đức quán Phần Dương

Vị long công trắc hế điện quốc cương

Danh thùy trúc bạch Công diễn thái hoàng

Sủng thừa tấn tích Đạo dụng khiêm quang

Điền lưu phụng sự Phúc bảo tuy tương

Tử tôn quý thịnh Thiên địa cửu trường.

Khánh Đức tam niên mạnh hạ nguyệt cốc nhật.

Tứ Đinh Sửu khoa Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Bồi tụng Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Lễ bộ Hữu thị lang, Phương Lộc bá, Trụ quốc, Thiệu Thiên Đông Sơn, Phù Lưu NguyÔn Thuần Phu soạn.

Nội doanh Thư ký Công bộ công trình Viên ngoại lang, Tu thận Thiếu doãn Văn Minh tử, Hà Hoa Thạch Hà Trảo Nha Vũ Quang Đại cảo soạn.

Nội doanh Câu kê Quản tri chiêm hậu, Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu Cẩm y vệ Phóđoán sự Văn Hiển tử, Hà Thạch Bạch Trì Nguyễn Thọ Diên thư.

Triện tượng cục Hoằng Tín đại phu Minh Thịnh hầu, Kinh Môn Nghi Dương Cổ Trai, Phan Nhân Hoà giám tự.



Dịch nghĩa:

BÀI KÝ CHÍNH ĐƯỜNG CỦA NGÔ TƯỚNG CÔNG

Bài ký trên đá về lệnh công họ Ngô được phong Dương vũ Uy dũng công thần Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Trung quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Thiếu uý Tào Quận công, Thượng trụ quốc.

Từng nghe: Bậc đại thần ân đức bao trùm sinh dân, công lao thi thố nơi xã tắc, ắt được khắc vào đỉnh đồng bia đá để chiếu rọi cho hậu thế, mà lưu truyền đến vô cùng, há phải chỉ để vẻ vang nhất thời, khoa trương trong một làng xóm mà thôi đâu!

Nay có Lệnh công họ Ngô, tên tự là Phúc Vạn, người làng Trảo Nha huyện Thạch Hà châu Hoan. Thuỷ tổ tên huý là Nước, Chánh quản lãnh ở Vệ Nghệ An. Cao cao tổ tên húy là Hải, Đô tổng binh Đồng tri trấn thủ trấn Thái Nguyên. Cao tổ huý là Hà, giữ chức Chủ bạ ở phủ An Vương, sau khi mất được tặng tước Thuần Trung hầu. Tằng tổ ( cố nội) huý là Thanh, Đô Tổng binh sứ trấn thủ xứ Nghệ An, tước Vĩnh Lộc hầu, sau khi mất được tặng chức Thái bảo. Hiển tổ (ông nội) huý là Trừng, Phụ quốc công thần Bật Nghĩa doanh Tây quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc, Thiếu bảo, tước Thế Quận công, gia phong Thái bảo. Hiển khảo (cha) huý là Tĩnh, Hiệp mưu dương vũ công thần Nam quânĐô đốc phủ Tả Đô đốc, tước Tứ Quận công, gia phong Thái bảo. Một nhà tích thiện dài lâu, công hầu sinh lớp lớp.

Lệnh công sinh năm Đinh Sửu (1577), tài kiêm văn võ, gặp vận hội gió mây.

Năm Canh Tý (1600), Lệnh công 24 tuổi, gắng sức phấn trí tôn phù vận mệnh hoàng triều, được giữ chức Thiêm nghị tại triều, được phong Dương vũ Uy dũng công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Điện tiền Tả hiệu điểm, tước Tường Khê hầu.

Năm Mậu Ngọ (1618) được kết duyên với Quận thượng chúa Trịnh Thị Ngọc Uyên,được chúa ban thực ấp.

Năm Giáp Tý (1624) thăng chức Cẩm Y vệ thự vệ sự, tước Tào Quận công.

Năm Bính Dần (1626) cầm quân bắt được nguỵ vương Càn Thống , được thăng Trung quân Đô đốc phủ Đô đốc Thiêm sự.

Năm Kỉ Tị (1629) thăng chức Đô đốc Đồng tri.

Năm Tân Mùi (1631) gia thăng Trung quân Đô đốc phủ Tả đô đốc, làm quan Chánhđường, được tham dự triều chính.

Năm Quý Dậu (1633) tiến binh lược định [đi đánh Đằng Trong], tướng quân chỉ huy Hậu quân đi tiếp hợp,uy danh lừng lẫy.

Năm Giáp Tuất (1634) vinh thăng Thiếu Bảo.

Năm Canh Thìn (1640), do lập mưu đánh bắt được tên phản nghịch HiÒn Quận, được gia tặng Thiếu phó, vâng mệnh trấn thủ toàn cõi Hoan Châu. Trong ngoài cõi được yên bình, triều đình có chỗ dựa vững chắc.

Năm Ất Dậu (1645) thăng chức Thiếu uý.

Năm Bính Tuất (1646) vâng mệnh mở Trung Nhuệ quân doanh. Khi ra ngoài biên cầm cờ mao tiết việt, giữ yên cương thổ, làm bức Vạn lý trường thành. Khi vào triều, ung dung nơi lang miếu, bàn định chính sự, làm bậc đại thần phụ chính, nổi danh đương thời. Đặt nhân tâm lên chốn vững chắc như Thái Sơn, đặt thế nước vào chỗ yên vững như Bàn Thạch. Công huân lưu truyền sử sách, phúc lộc nhiều đỉnh chung. Tông tộc rạng rỡ, phúc đức con cháu mãi truyền.

Con trưởng là Phúc Thiêm chỉ huy quân lính nghiêm minh.13 tuổi đã đưa quân đi bắt tên nghịch Khắc Tôn, được thăng tước Nham Quận công. Năm 18 tuổi, có công dẹp yên nội loạn, gia thăng Hiệu lực Tứ vệ Đề đốc.

Con trai thứ hai Phúc Đang, thăng chức Tham đốc Đông Giang hầu.

Con trai thứ ba Phúc Hiệp, thăng chức Cai quan Chân Kì hầu. (6)

Con thứ tư là Khiêm Cung hầu Phúc Tân.

Con thứ năm là Miên Lộc hầu Phúc Hộ.

Con thứ sáu là Kiêm Lộc hầu Phúc Điền.

Con thứ bảy là Hào Mỹ hầu Phúc Liêu.

Con thứ tám là Phúc Phổ. (7)

Tất cả đều lên tướng đàn, nhiều lần được ân sủng của vua. Cho đến các con gái cũng lấy chồng là các bậc hào hoa, xiêm y trâm ngọc rạng nhà, sân vang xe ngựa. Thật một nhà đại vinh hoa, phồn thịnh.

Năm nay Lệnh công 75 tuổi, tóc đã rũ mái vàng, dáng còn như thanh xuân, tài giỏi phù trì, tuổi thọ dài lâu, phúc cao như núi. Những khi nhàn hạ, thường thích việc thi thư, vui thú chăm hoa cây vườn tược. Ngày tháng tuổi già, tiêu dao tự tại, tìm sâu đạo Thánh dấu Tiên, tạo dựng Phúc Am Bảo Các thờ Tam tài thủ quân, để lại 30 mẫu ruộng tốt cho xã Thái Hà phụng thờ hương khói. Lại để 5 mẫu ở xã Hoa Lung làm ruộng dưỡng điền để báo đáp công ơn nuôi nấng của mẹ nuôi (từ nhũ). Giao cho làng Thổ Sơn và làng Cựu Nhất 10 mẫu kính điền để lo việc tế tự cho cha mẹ; lại giao nghĩa điền 30 mẫu cho bốn thôn thuộc hai làng Kỳ Lạc và Lý Nhân để dùng vào việc hậu sự phụng thờ [cho mình].

Muốn lưu truyền cho đời sau được biết, Lệnh công mời ta viết bài văn.

Ta nghĩ rằng: người có đức ắt sẽ được trời ban cho phúc hậu. Lệnh công là con nhà tướng, văn võ kiêm toàn, danh nổi triều đình, sấm mây gặp hội, khuông phù nhật nguyệt, chỉnh đốn càn khôn, uy vọng thật long trọng, chức vị kiêm tướng võ tướng văn, là bậc nguyên lão triều đình, tên tuổi ghi truyền trên cờ lệnh. Lệnh công lại đem ruộng kính điền, tế điền, dưỡng điền, nghĩa điền giao cho dân làng để dùng vào việc hương hoả ngàn năm. Tấm lòng như thế mới biết Lệnh công lấy trung thành báo nước, lấy trung hậu truyền gia. Vậy nên phúc lộc đáng bậc thượng hưởng nơi tông miếu, truyền lại cho con cháu, xa đến nhiều đời miêu duệ, đời đời trung trinh, đời đời tước lộc, cùng quốc gia chung hưởng phú quý, cùng trời đất mãi được trường tồn.

Thịnh vượng thay!

Ta hâm mộ cái chí của Lệnh công, nhân làm xong bài Tán, thuật lại sự việc, bèn cho khắc vào đá để lưu truyền mãi mãi.

Bài Tán rằng:

Hoan Châu trấn lớn Huyện Thạch danh hương

Xuất thân cửa tướng Lệnh công đảm đương

Rồng mây vận hội Cá nước duyên thường

Khuông phù dốc lực Chinh phạt oai dương

Công hơn Vũ Huệ Đức vượt Phần Dương

Chức cao thăng tiến Vẹn giữ biên cương

Danh lừng sử sách Công lao muôn dường

Xiết bao ân sủng Đức sáng khiêm nhường

Ruộng lưu thờ phượng Phúc trạch mãn đường

Cháu con quý thịnh Trời đất cửu trường.



Ngày lành tháng mạnh Hạ (tháng Tư) năm Khánh Đức thứ 3 (1651).

Nguyễn Thuần Phu (8) Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ khoa Đinh Sửu (1637), chức Bồi tụng, Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, Lễ bộ Hữu thị lang, tước Phương Lộc bá, trụ quốc, người xã Phù Lưu huyện Đông Sơn phủ Thiệu Thiên soạn.

Vũ Quang Đại, Nội doanh thư kí, Công bộ Công trình Viên ngoại lang, Tu thận Thiếu doãn, tước Văn Minh tử, người xã Trảo Nha huyện Thạch Hà phủ Hà Hoa cảo soạn [tức hoàn chỉnh bản thảo].

Nguyễn Thọ Diên, Nội doanh Câu kê, Quản tri chiêm hậu, Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, Cẩm y vệ Phó đoạn sự, tước Văn Hiển tử, người xã Bạch Trì huyện Thạch Hà viết chữ.

Phan Nhân Hoà, Triện tượng cục Hoằng Tín đại phu, tước Triều Thịnh hầu, người làng Cổ Trai huyện Nghi Dương phủ Kinh Môn trông coi khắc chữ.



Duệ tôn NGÔ ĐỨC THỌ

hiệu đính, chú thích

------

(1) Dòng lạc khoản cho biết bia này soạn khắc xong tháng 4 năm Khánh Đức 3 (5-1651). Đoạn cuối bia cho biết khi dựng bia Tào quận công 75 tuổi, còn khoẻ mạnh -tức là bia dựng tại phủ đường (nhà ở) của Tào quận công. Gia phả cho biết cụ mất ngày 15 tháng 8 năm Nhâm Thìn (DL 17-9-1652), tức hơn một năm sau ngày dựng bia này cụ mới mất.

(2) Phủ đệ của Tào quận công sau trở thành nhà thờ của cụ ở thôn Thổ Sơn xã Trảo Nha. Nay là nhà thờ họ Ngô xóm Phúc Sơn Thị trấn Nghèn (Can Lộc), tĩnh Hà Tĩnh.

Mộ Tào quận công táng trên núi Nghèn. Cả nhà thờ và mộ đã được xếp hạng Di tích LSVH.

(3) Niên hiệu Gia Thái 5 (1577) triều Lê Thế Tông.

(4) Quận thượng chúa tức Trưởng công chúa.

(5) Tức Mạc Kính Cung niên hiệu Càn Thống.

(6) Chữ Hiệp 洽,khắc sít nét rất giống chữ Trị 治 , vì vậy có tài liệu đọc là Ngô Phúc Trị. (7) Chữ Hiệp 洽,khắc sít nét rất giống chữ Trị 治 , vì vậy có tài liệu đọc là Ngô Phúc Trị.

(7)Bia soạn khi Tào quận công còn sống chỉ ghi tên 8 con trai . Theo Gia phả họ Ngô Trảo Nha của Ngô Phúc Lâm: khi ấy mới xẩy ra chiến sự giữa Đàng Trong và Đàng ngoài, 2 con thứ 9 và thứ 10 của Tào quận côngcòn thất lạc: Con thứ 9 là Ngô Phúc Trị (Toản Vũ hầu) và con thứ 10: Ngô Phúc Triều (Khanh Tương hầu).

(8) Người soạn : Ngjuyễn Thuần Phu tức Ngjuyễn Thế Khanh (1601-1670) hiệu Thuần Phu, người xã Phù Lưu huyện Đông Sơn Nay là thôn Phù Lưu xã Quảng Thắng, thành phố Thanh Hoá tỉnh Thanh Hoá. 37 tuổi đỗ Đệ nhất giáp Tiến siĩ cập đệ đệ tam danh (Thám Hoa) khoa Đinh Dửu niên hiệu Dương Hoà 3 (1637) đời Lê Thần Tông. Làm quan đến chức Hữu Thị lang bộ Lễ, tước Phương Lộc hầu. Sau khi mất được truy tặng chức Tả thị lang.

(Xem. Ngô Đức Thọ chủ biên, Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919. H., Nxb Văn học, 2006. tr.474)

Bản dịch văn bia này đã đợc in trong cuốn VĂN BIA HÀ TĨNH do Đinh Khắc Thuân- Trần Hồng Dần chủ biên. Sở VHTT Hà Tĩnh xbản, 2007. Tr. 114-124 (nhưng không có ảnh bia kèm theo)






































Œ 第九支 纘武侯 生 溢忠侯 生 僉郡公吳福臨



Ž 第七支 豪美侯 無跡



 第五支 郡公 生 榮軍郡公 灝郡公浤郡公



Ž 第三支滕郡公 無嗣 女婿



Œ 正支 潤郡公 女婿



第 二支 澣郡公 女婿



 第四支 謙恭侯 無嗣 女婿



‘ 第六支 兼祿侯



“ 第 八支 云嶺侯 無嗣



• 第十支 鏗鏘侯



ĐỀN THỜ NGÔ PHÚC VẠN




- Vị trí - Địa điểm:

Làng Phúc Lộc, xã Đại Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh


- Cấp bậc - xếp hạng: Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia


- Cơ quan quản lý: Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch




* Giới thiệu chung:

Đền thờ Tào Quận công - Thái bảo Ngô Phúc Vạn (hay còn gọi Từ Đường họ Ngô). Ngô Phúc Vạn (1577-1652) người làng Trảo Nha, xuất thân con nhà tướng, là người văn võ toàn tài không chỉ võ nghệ cao cường, thông hiểu binh thư trận pháp mà thánh kinh hiền truyện, thiên văn, địa lý, toán học đều tinh thông cả. Ông là một trọng thần, một danh tướng của triều đình Lê -Trịnh có nhiều công lao đóng góp giữ yên bờ cõi bảo vệ chính đường, khẩn hoang ruộng đất đưa lại lợi ích cho trăm họ trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động ở nước ta cuối thế kỷ 18. Ngô Phúc Vạn làm quan đến chức Thái bảo, tước phong là Quận công, về già trở thành một đạo sĩ thông hiểu nho y lý số, khi mất được nhân dân địa phương lập đền thờ tại quê nhà.

Đền thờ gồm hai nhà kết cấu theo kiểu chữ Nhị, một nhà bia và bia được xây dựng sau ngày mất của Tào Quận công 3 năm (1655). nhưng kiến trúc nguyên thuỷ nay không còn nữa, kiến trúc hiện tại là kết quả nhiều lần tu sửa của dòng họ.

Đền thờ nằm trên một khu đất bằng phẳng có diện tích 1.700m2, có 2 cột nanh hình trụ cao 4,5m, đến Tắc môn xây theo kiểu cuốn thư, phía sau Tắc môn là nhà bia được xây theo kiểu mái vòm chồng diêm, bốn góc có đao hình cung, mũi hất lên trên đắp nổi hình rồng đơn giản. Bia ghi lại sự tích và hành trạng của Thái Bảo tào Quận Công Ngô Phúc Vạn và các công thần họ Ngô có công lao đóng góp vào sự nghiệp trung hưng nhà Lê. Bia được chạm khắc đẹp, trán bia có chạm hình lưỡng long chầu nguyệt hai bên có hoa văn trang trí đường nét bay bướm nhẹ nhàng.

Bái đường, mới được xây dựng năm 1982, gồm 3 gian 2 vì 4 cột , 2 đầu gác tường xây bằng đá (là nơi chuẩn bị cho lễ bái). Trước sân nhà bái đường có đặt hai bể nước bằng đá Thanh được đẽo gọt khá công phu hình tròn có chân, có đai bể, hình dáng đẹp thanh thoát. Hai bể nước này được chạm khắc cùng thời với bia Ngô Phúc vạn.

Thượng điện, kề sát Bái đường, đặt bài vị Ngô Phúc Vạn và các phúc thần họ Ngô; vốn được trùng tu và xây lại từ thời Nguyễn. Cách bài trí trong nội thất nhà Thượng điện giống nhau: gồm 3 gian 4 cột vì có liên kết giống nhau, mỗi vì 3 cột( 1 cột cái 2 cột con), các cột trong Thượng điện đều có treo câu đối và hương án giường thờ, bài vị thờ đều giống nhau .Hương án được chạm trổ một cách tinh vi trên là hình rồng chầu nguyệt phía dưới là nhiều hình tượng được chạm lồng in nổi hình long, ly, quy, phượng chầu nhau vào các hoa văn mai đào tùng cúc.Đường nét chạm khắc gãy gọn tinh xảo thể hiện trình độ điêu khắc cao của nghệ thuật dân gian. Đây là di tích danh nhân lịch sử văn hoá, niên đại TK 19.

Cinet

(Sở VHTT Hà Tĩnh)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét