LÊ VĂN THỊNH 黎 文 盛
Người làng Đông Cứu huyện Gia Định – Nay là làng Bảo Tháp xã Đông Cứu huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh.
Đỗ đầu khoa Minh kinh bác học năm Ất Mão niên hiệu Thái Ninh 4 (1075) đời Lý Nhân Tông.
LTĐK(I,1a);LĐĐK (I,1a); TThư (BK3,3a); KMC; BNĐD,14a.
Đây là khoa thi Nho học
đầu tiên do triều đình tổ chức trong lịch sử khoa cử nước ta. (Cùng năm
có khoa thi Nho học Tam trường có thể coi như tương đương với thi Hương
sau này). Không rõ số người dự thi và số người được lấy đỗ, sử chỉ ghi
được duy nhất người trúng tuyển là Lê Văn Thịnh.
Sau khi thi đỗ, Lê Văn
Thịnh được tiến cử vào cung hầu vua học (thị đế học), tức là làm thầy
dạy học cho vua Lý Nhân Tông lúc đó mới lên 10 tuổi. Sau được bổ chức
Nội Cấp sự (VSL). Cuối năm Bính Thìn (2-1076) Lê Văn Thịnh được thăng
chức Thị lang bộ Binh.
Lúc đầu ông được bổ chức
Nội cấp sự, cuối năm 1076 thăng Thị lang bộ Binh, năm 1084 dẫn đầu sứ
bộ Đại Việt đến trại Vĩnh Bình thương lượng việc biên giới với sứ bộ nhà
Tống, khi về được thăng Thái sư (Tể tướng).
Thời gian này quan hệ
biên giới với nhà Tống có diễn biến phức tạp, năm trước Lý Thường Kiệt
đã đem quân đánh phá Ung Châu. Khi Lê Văn Thịnh nhận chức Thị lang bộ
Binh cũng là lúc nhà Tống sai Quách Quỳ, Triệu Tiết đưa quân sang xâm
lược nước ta. Quân Tống bị chặn đánh quyết liệt, sau gần một năm rưỡi bị
tổn thất nặng nề phải rút về (1-1076 - 3-1077).
Tuy vậy,
nhà Tống không chịu trả một số khe động, lấy cớ đó là những đất các thổ
tù đã nộp cho Trung Quốc. Trước đòi hỏi của Đại Việt, nhà Tống phải đồng
ý tổ chức hội nghị ở trại Vĩnh Bình (nay là TP. Nam Ninh,TQ) để thương
thảo. Hội nghị Vĩnh Bình lần thứ nhất (~7-1083) thất bại, sứ bộ Đào Tông
Nguyên bỏ hội nghị ra về. Hội nghị Vĩnh Bình lần thứ hai ( tháng 6 năm
Giáp Tí /~7-1084]) sứ bộ Đại Việt do Thị lang bộ Binh Lê Văn Thịnh dẫn
đầu. Các ghi chép còn lại cho thấy trong các cuộc thuơng thuyết, chánh
sứ Lê Văn Thịnh ngôn từ mềm dẻo nhưng cương quyết đòi nhà Tống trả đất
cho Đại Việt. Kết quả là sau hội nghị ấy nhà Tông đã phải trả lại cho ta
6 huyện và ba động (Toàn thư, BK3-11a). Đầu năm sau (1085) Lê Văn Thịnh được thăng chức Thái sư (Tể tướng).
Ông giữ chức Tể tướng 12
năm, đất nước thái bình vô sự, tù phạm được khoan giảm án phạt, nông
phu được miễn giảm thuế khoá. Nhưng chính ông bị oan khốc, bị khép tội
“mưu phản” bị đày đi Thao Giang năm Hội Phong 5 (1096), rồi mất ở đó.
Vụ án của ông là một án kiện lớn, nhưng chỉ thấy sử sách ghi lại một cách lờ mờ theo truyền thuyết. Toàn thư
chép: “Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm, ngự trên thuyền nhỏ xem đánh ca. Chợt
có mây mù nỏi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái
chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền
có con hổ….Người đánh cá là Mục Thận quăng lưới trùm lên con hổ, thì ra
là Thái sư Lê Văn Thịnh” (BK3-13a). ĐVSL cũng có ghi việc này, nhưng
không có chi tiết người đánh cá (Mục Thận) quăng lưới bắt hổ thì thấy là
Lê Văn Thịnh, chỉ ghi: “…Khói mù theo giáo mà tan đi.Thấy thuyền của
Văn Thịnh sát tới, sẵ có đồ hung khí, vua sai người bắt”(VSL, II-19a).
VSL quá tin vào sử sách đời Lý, không có chứng cớ mà nghi cho Lê Văn
Thịnh “từ lâu đã chất chứa mưu gian”, Toàn thư thì quá tin vào truyền
thuyết hoáng đường, để oan khuất kéo dài cả ngàn năm cho Lê Văn Thịnh,
bậc khởi tổ khai khoa của khoa cử Nho học Việt Nam.
Về nơi Lê Văn Thịnh bị
đi đày, Toàn thư ghi là Văn Thịnh “ đựoc tha tọi chết, an trí ở Thao
Giang”. Nhưng VSL ghi: “Vua xuống chiếu đày Văn Thịnh đi Lương Giang
đầu”. Lương Giang đầu là đầu nguồn sông Lương Giang tức sông Chu ở Thanh
Hoá. Thuyết của VSL có thể có căn cứ vì đời sau ở làng Phủ Lý (Đông
Sơn, Thanh Hoá) có Lê Quát học trò của Chu Văn An, đỗ Thái học sinh đời
Trần Minh Tông là dòng dõi của Lê Văn Thịnh (theo Hoàng Xuân Hãn, LTK)
Nay ở quê hương ông còn đền thờ đã được xếp hạng DTLSVH. Trong đền có 10 đạo sắc của triều Lê Trung hưng và triều Nguyễn phong Lê Văn Thịnh làm thành hoàng làng Bảo Tháp.
Nhà cũ của ông ở thôn Bảo Tháp về sau cải dựng thành chùa, gọi là chùa Thái Sư (Thái Sư tự 太師寺)
– Chùa này đến đầu thế kỷ XVII vẫn mang tên là chùa Thái Sư (Thái Sư tự
bi ký, Hoàng Định 14 [1615]), sau đổi tên thành chùa Thiên Thư (Thiên
Thư tự 天書寺), có quả chuông đúc năm Minh Mệnh thứ 14 (1835).
Vì nhà cũ đã sửa
làm chùa nên khoảng đầu thời Nguyễn dân xã dựng riêng ngôi đền để thờ
Thái sư Lê Văn Thịnh. Bia cổ ở chùa Thái Sư đã được dời đến dựng ở đây.
Trong đền có tượng, ngai thờ, bài vị “Lê Thái sư đại vương” và 10 đạo
sắc phong Thái sư làm thành hoàng làng Bảo Tháp. Chính điện treo tấm
hoành phi đề 4 chữ “Đỉnh giáp khai khoa 鼎甲開科” (Bậc khởi tổ đại khoa).
Khu lăng mộ Thái sư Lê Văn Thịnh ở thôn Đình Tổ, xã Dình Tổ, huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh cũng đựoc xếp hạng DTLSVH
Tác phẩm:
Lê Văn Thịnh không có
văn tập nào truyền lại, nhưng còn một bức thư của ông gửi cho Kinh lược
sứ Quảng Tây là Hùng Bản nhắc lại lời biện luận ở Hội nghị Vĩnh Bình
được ghi lại trong Tục Tư trị thông giám trường biên :
黎文盛寓書熊本,曰:
“成卓言:上電,下雷,溫,潤,英,遙,勿陽,勿惡,計,城,貢,淥,頻,任峝,景思,苛紀縣十八處,從南畫界,以為省地.陪臣小子,惟命是聽,不敢爭執.然儂氏所納土,皆廣源之屬也.幸遇聖朝,萬政更張,何愛此磽确瘴癘之地,不以囘賜本道存庇外臣?或曰“昨王師所取者當還其守吏挈而歸明者難復也”.文盛 以 爲土有主屬,守吏挈而逃去,盜主之物也.主守自盜不赦之.贓盜物寄,法亦不許,況可污於省籍乎”
(Lý Đảo,Tục Tư trị thông giám trường biên, Q.349, 7b. Bản in Tứ khố toàn thư, Sử bộ)
Dịch:
Thư Lê Văn Thịnh gửi Hùng Bản:
“Thành Trạc đã nói sẽ
vạch địa giới ở phía nam mười tám xứ sau này: Thượng Điện, Hạ Lôi, Ôn
Nhuận, Anh, Dao, Vật Dương, Vật ác, Kế Thành, Cống, Lục, Tần, Nhâm,
Động, Cảnh, Tư, Kỳ, Kỷ, Huyện và nói những xứ ấy đều thuộc
Trung Quốc, Bồi thần tiểu tử nầy, chỉ biết nghe mệnh, không dám cãi
lại. Nhưng những đất ấy, mà họ Nùng đã nộp, đều thuộc Quảng Nguyên.
“Nay, may gặp Thánh
triều ban bố hàng vạn chính lệnh khoan hồng. Sao lại chuộng miếng đất
đầy đá sỏi, lam chướng này, mà không cho lại nước tôi, để giúp kẻ ngoại
thần.” (Bản dịch của Hoàng Xuân Hãn trong: Lý Thường Kiệt, Sông Nhị, 1951)
LTĐK(I,1a);LĐĐK (I,1a); TThư (BK3,3a);ĐVSL,Q. ; ĐNNTC (Bắc Ninh); KMC; BNĐD,14a. Thái sư tự bi ký No 4998; Thái
Sư dại vương sự tích; Lý Thường Kiệt (Hoàng Xuân Hãn ); Từ điển di tich
LS-VH VN (Ngô Đức Thọ chủ biên); Bắc Ninh tỉnh thần tích; Tục Tư trị Thông giám trường biên Q.349 (Lý Đảo soạn; Tứ khố toàn thư, Sử bộ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét