Thứ Ba, 12 tháng 6, 2012

NGÔ ĐỨC KẾ - Đông Tây vĩ nhân Truyện LÂM KHẲNG (Abraham Lincoln)


Abraham Lincoln
(1809 - 1865)


 A.Lincoln năm 1863 (54 tuổi), ảnh của Wikipedia
Lời Dẫn

Cụ nghè Ngô Đức Kế là ông nội bút giả, bị thực dân Pháp bắt đày Côn Đảo 13 năm. Trước là án tử hình nhưng chưa xử ngay (giảo giam hậu), giảm đi giảm lại mấy lần, cuối cùng là 21 năm giảm xuống 13 năm. Năm 1921 được trả tự do, rời khỏi Côn Lôn, cuối 1923 Ngô Đức Kế ra Hà Nội làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh. Từ 1925 -1927 Ngô Đức Kế tổ chức và đi đầu trong các cuộc vận động đòi Pháp trả tự do cho cụ Phan Bội Châu, tổ chức truy điệu cụ Phan Chu Trinh trên toàn quốc. Năm 1927 Ngô Đức Kế lần đầu tiên công bố các tác phẩm quan trọng của Phan Chu Trinh: cuốn Phan Tây Hồ di thảo. Hai năm 1928-1929, Ngô Đức Kế mở Giác quần thư xã, tổ chức biên soạn giới thiệu với độc giả trẻ tuổi Việt Nam truyện kể các danh nhân nổi tiếng trên thế giới. Ngô Đức Kế đã hình thành và thực hiện đề tài này từ khi viết các khảo luận về Bacon, Descartes, Darwin đăng trên tạp chí Hũu Thanh, đến hồi này chuyển làm bộ sách ĐÔNG TÂY VĨ NHÂN. Cả bộ dự kiến gồm 20 tập, viết về khoảng 10 vĩ nhân phương Tây, 4 vĩ nhân Việt Nam, 7 vĩ nhân Trung Hoa. Giác quần thư xã đã xuất bản được 5/20 cuốn dự kiến.
Quyển thứ nhất gồm Truyện Lâm Khẳng (Lincoln)  và Truyện Nột Nhĩ Tốn (Nelson) đều do Ngô Đức Kế viết, Giác quần thư xã ấn hành năm 1929 tại Hà Nội, cách nay 83 năm.
Lâm Khẳng, tức Abraham Lincoln (1809-1865) là con nhà thợ mộc nghèo, nhưng được mẹ là bà Nancy dạy bảo rất chu đáo, đến mức sau này đắc cử Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ, Lincoln vẫn thường nhắc lại lời mẹ dạy bảo.
Lincoln chỉ thực sự được cắp sách đến trường không đầy 12 tháng, nhưng ngày đêm cần cù tự học, 16 tuổi quyết chí học luật cho tinh thạo để làm Trạng sư. 18 tuổi vâng lời cha làm việc chèo đò, mỗi tuần lễ được 2 đồng 5 hào đều đưa về cho cha chi dùng việc nhà. Sau năm 21 tuỏi Lincoln mở một cửa hàng tạp hóa nhỏ, không lấy thừa tính bớt của ai một xu, dân chúng đều khen ngợi. Sau Lincoln đi lính nghĩa dũng, làm một chức đội nhỏ, mọi điều kỷ luât đều tuân giữ rất nghiêm. 28 tuổi đủ trình độ làm Trạng sư như thủa nhỏ mong ước. Năm 1860 Lincoln trúng cử Đại Tổng thống. Do vấn đề nô lệ xẩy ra cuộc chiến Nam Bắc, ngày 1-1-1863 Đại Tổng thống Lincoln ký Tuyên ngôn giải phóng nô lệ, hơn 4 triệu nô lệ ở miền Bắc được tự do. Trên chiến trường lính da đen trong quân đội miền Nam nghe tin miền Bắc giải phóng nô lệ, bèn bỏ hàng ngũ ào ào chạy qua chiến tuyến của quân Bắc. Không may, khi về thủ đô, Lincoln cùng vợ đến nhà hát Fordes dự mừng chiến thắng bị diễn viên tên là Booth vốn là người của đảng quân Nam rình lén bắn chết (14-4-1865). Người Mỹ các thế hệ thảy đều ca ngợi Lincoln là vị Tổng thống vĩ đại, ngang hàng với G.Washington là Tổng thống khai quốc của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Mấy đoạn bình luận của Ngô Đức Kế:
-Lâm Khẳng diễn thuyết lúc ứng cử lời lẽ ngay thẳng biết bao, đời nay những bọn cầu quan xin việc, đến cửa riêng thì hót nịnh một cách đê hèn, ra công đường thì tô chuốt những lời nói tốt, cái nhân cách bọn ấy so với Lâm Khẳng khác nhau xa biết bao!
-Thợ mộc ra ứng cử Tổng thống, tị  (so với) nước khác thì chắc lấy việc ấy làm xấu hổ mà giấu giếm đi, mà tại nước Mỹ thì lại lấy làm vinh mà truyền tụng ra, thế mới biết nghề nghiệp là thánh thần, mà cái tinh thần chính trị bình dân vẫn khác.
-Lâm Khẳng hay tôn trọng dân ý, trọng chủ nghĩa tự trị, ông có nói rằng: “Nhân dân là ông chủ tể Quốc hội và Pháp viện, cho nên hiến pháp mà có chỗ nghi ngại thì nên theo dân ý mà định, vì dân ý có thể phòng giữ được nhà chính trị phá hoại hiến pháp, chứ không đến nỗi tự phá hoại hiến pháp bao giờ”.
-Đọc truyện Lâm Khẳng nên biết rằng cái công nghiệp của Lâm Khẳng đều bởi trong đức tính mà ra, chúng ta mà hy vọng cái công nghiệp của Lâm Khẳng thì trước phải dũng thành đức tính của Lâm Khẳng.

Sau Truyện Lincoln, Ngô Đức Kế viêt tiếp Truyện Hoa Thịnh Đốn, tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Bản thảo đã xong, nhưng chưa kịp xuất bản thì Ngô Đức Kê lâm bệnh qua đời (12-1929). Sau tang lễ, bạn thân của cụ là cụ Huỳnh Thúc Kháng đưa bản thảo về Huế in ở nhà in Tiếng Dân với tiêu đề trên của sách ghi “Di thảo cụ Ngô Đức Kế”.
Do thực dân Pháp tìm cách hạn chế ảnh hưởng các nước tân tiến khác ngoài Pháp, cho nên ở Việt Nam hồ đầu thế kỷ XX ít ai biêt đến nền tự do dân chủ của Hoa Kỳ. Hai cuốn sách mỏng Truyện Lâm Khẳng (Lincoln) và Truyện Hoa Thịnh Đốn của Ngô Đức Kế nêu lên với người đọc Việt Nam một nhận thức mới mẻ về nền chính trị thế giới. Đồng thời cuốn sách là một minh chứng cho thấy với tinh thần yêu nước chống ngoại xâm, xã hội lúc bấy giờ sôi động các hoạt động chính trị tìm đường cứu nước.
Cụ Phan Chu Trinh đúc kết tinh hoa của văn minh phương Tây, bao quát là hai giá trị
Dân chủ và Dân quyền. Khi biên tập di thảo của cụ Tây Hồ để xuẩt bản, Ngô Đức Kê đã viết thêm một đoạn gồm 4 ý bổ sung mà hai người đã từng thảo luận với nhau mà cụ Tây Hồ chưa kịp nói hết trong một bài diễn văn ngắn.
Đọc cuốn Truyện LincolnTruyện Washington, chúng ta có thể thấy Ngô Đức Kế muốn bổ túc cho một cái nhìn rộng mở hơn chứ không giới hạn bởi nền dân chủ của Pháp và châu Âu. Ngô Đức Kế có lẽ là một trong những người đầu tiên muốn hướng tầm nhìn đó của đồng bào mình về phía nền dân chủ đầu tiên trên thế giới, đó là Hoa Kỳ.
Đọc tiểu sử sự nghiệp của hai vị tổng thống lừng danh trong lịch sử nước Mỹ, người đọc trước đây cũng như hiện nay có thể cảm nhận được bản chất nhân văn chủ nghĩa của các cuộc chiến tranh cách mạng và bảo vệ độc lập của quốc gia Bắc Mỹ - ngay từ khi lập quốc người dân đã thực sự có quyền cầm nắm vận mệnh của mình. Đó là một tiền đề rất quan trọng khiến cho nền dân chủ của nước Mỹ có những đặc điểm rất mới mẻ, sinh động, trở thành cảm hứng cho một xã hội dân sự năng động, phát triển.
Ngưỡng mộ những lý tưởng cao đẹp và cuộc đời - tấm gương lớn của cả Washington và A.Lincoln, tôi đưa lên mạng bài này để quý bạn có thể tham khảo.
Ngô Đức Kế viết bài này cách đây hơn 80 năm, bấy giờ văn tiếng Việt trên sách báo vẫn ở chặng đầu, còn dùng nhièu từ Hán Việt và cấu trúc văn pháp chưa có những phong cách nhẹ nhàng uyển chuyển như ngày nay. Điều đó có thể gây trở ngại ít nhiều cho cảm hứng của bạn đọc, nhưng bù lại, qua đó bạn đọc có dịp sống lại một thời đáng nhớ của lịch sử văn hoá Việt Nam.
Nguyên bản do nhà in Tiếng Dân ấn hành năm 1930 không có ảnh. Giới thiệu lên mạng lần này tôi trân trọng đặt lên đầu bài chân dung Tổng thống A.Lincoln năm 1863 (54 tuổi), ảnh của Wikipedia.
Ngô Đức Thọ
-Xem thêm: Ngô Đức Thọ: Lời dẫn Truyện Hoa Thịnh Đốn.




Làm một anh hùng đời loạn lạc dễ hơn làm một đấng anh hùng đời trị an. Làm một đấng anh hùng nước
`chuyên chế dễ hơn làm một đấng anh hùng nước cộng hoà. Anh hùng đời loạn lạc thường thường nhờ cậy binh lực, hoặc kẻ xuất thân trong hàng quân lính, hoặc người gặp gỡ trong hội gió mây, hễ có võ lực hơn người thì bất kỳ anh bán thịt buôn trâu hay là kẻ đeo dao giắt búa đều có thể gặp thời làm nên việc mà chiếm được một vài trang giấy trong bộ sử truyện chiến tranh để đời này qua đời khác. Còn như đời trị an thời khác hẳn, chính trị đã đúng vào khuôn phép thì anh hùng cũng khó lòng mà khởi lên, nhân tâm đã quen thói an phận thủ thường thì anh hùng cũng khó lòng làm nên việc. Nếu không phải là người có tài tột bực, xét thấy rõ ràng cái bệnh hoạn kín màu của xã hội, mà đem cái tinh thần phấn phát mạnh mẽ để tiếp theo, thì chắc không ai có thể gặp may mà thành công, để danh tiếng đến đời sau được bao giờ. Thế thì biết anh hùng đời loạn lạc là anh hùng của thời thế tạo ra, anh hùng đời trị an là anh hùng tạo ra thời thế. Song tuy sinh ra đời trị an mà nếu ở vào nước chuyên chế thì cái cơ hội làm nên công nghiệp cũng không khó khăn lắm đâu, vì rằng nước chuyên chế thì cái tinh thần ở nơi quyền thế, quyền thế thuộc về đâu thì nhân tâm xoay về đó. Ông quân chủ nắm quyền lớn ở trong tay, vẫn có thể sai khiến bắt buộc được bọn anh tài trong thiên hạ, mà kẻ làm tôi được ông quân chủ tin cậy cũng có thể lấy quyền thế mà thâu được lòng người, có lợi lộc để làm mồi thì nhiều người xu phụ, có uy hình để làm tội thì ít ai dám chống ngăn, thế cho nên anh hùng nước chuyên chế nhờ đó mà làm nên công to nghiệp lớn. Còn như nước cộng hoà thì không thế, cái chủ quyền của nước nhà cầm trong tay một đám dân đông, mà lòng dân không dễ ép được, danh vọng không dễ mua được, tất phải mình có lòng gánh vác trách nhiệm quá hơn người thường, đem cái thủ đoạn quang minh lỗi lạc mà dâng mình cho nước nhà, thì nước nhà mới được phúc lâu dài, mà mình cũng được tiếng thơm với nước. Thế thì biết anh hùng nước chuyên chế là anh hùng bắt dân chúng làm tôi mình, mà anh hùng nước cộng hoà là anh hùng làm tôi cho dân chúng.
Chúng ta sinh đời nay mà muốn làm anh hùng thì phải gắng làm anh hùng đời trị an, càng nên gắng làm anh hùng nước cộng hoà mới phải. Nào những kẻ cậy tài ngang dọc hay là dùng cơ mưu quyền thuật để lừa người dối đời, mua danh trộm tiếng, bọn ấy đều là nhân vật trong lịch sử đã qua rồi, chứ không hợp với đời bây giờ nữa. Tuy rằng làm cho thành công thì có bên khó bên dễ khác nhau, nhưng nếu muốn làm kẻ hào kiệt cho đúng thời thì cũng không nên quản cái khó. Vả chăng anh hùng nước cộng hoà làm việc gì cũng phải theo chỗ bình thường thiết thực mà làm, cho nên cái công nghiệp làm ra thiệt có phúc dân lợi nước, khác hẳn với bọn giả dối cầu danh.
Vả chẳng mà thất bại nữa, thì cũng có thể tới được thì lui được, không đến nỗi mất cả cái địa vị lập thân, thường thường có những bọn thiếu niên, bề ngoài cũng yêu nước thương nòi, mà nghĩ rằng mình đã ra gánh lấy việc đời thì việc một mình một nhà là việc nhỏ nhen, thế không kiêm được. Xưa Lưu Qúy không chăm sản nghiệp, Trài Tuân kết khách để phục thù, bọn sĩ phu khinh bạc cứ dẫn việc ấy làm câu chuyện hay, thành ra cái trách nhiệm nước nhà chưa gánh được, mà cái trách nhiệm gia đình đã vứt đi. Thế thì hãy cứ theo trong tầm thường lễ pháp mà cầu có được cái địa vị vững vàng, có hơn không? Người xưa dạy cháu có câu rằng “vẽ con hùm mà không thành trở lại giống con chó” Ôi! những kẻ sùng bái anh hùng, chỗ dở chỗ hay phải thận trọng thay!
Xem trong quốc sử nước Mỹ được một người đáng làm khuôn phép cho bọn thiếu niên là ông Lâm Khẳng. Lâm Khẳng sinh vào lúc 13 châu nước Mỹ đã xong cuộc độc lập rồi. Cái thời đại ấy không phải là thời đại anh hùng đua đuổi, lấy võ lực mà chọi hơn thua. Ông lại là một người dân quê trong nước Mỹ là nước chính trị bình dân, không có thế vị gì, không có quyền lực gì mà cậy dựa cả. Lúc đầu làm thợ mộc, rồi làm lái thuyền, làm việc cửa hàng, làm trạng sư, làm nghị viên, làm một việc nào thì lo làm hết chức phận việc ấy, chưa hề chểnh mảng bao giờ, chưa hề nói chí lớn không chăm việc nhỏ bao giờ . Như thế mà sau lên đến cái địa vị làm đầu chóp một nước, làm nên được cả sự nghiệp giải phóng bọn hắc nô , thống nhất miền Nam Bắc, là vì đâu? Chỉ vì ông có cái lòng trách nhiệm cùng cái lòng tiến thủ mạnh hơn người ta mà thôi. Vì cái lòng trách nhiệm hơn người ta, cho nên bất kỳ làm một việc gì cũng không chịu làm lu lơ; vì cái lòng tiến thủ hơn người, cho nên bất kỳ làm việc gì cũng cầu cho tiến lên một bước. Ông Lâm Khẳng đủ cả tài và đức, nên đã đem hết tài đức ra mà làm được bậc vĩ nhân, nhưng nếu người nào tài năng không bằng Lâm Khẳng mà có lòng như Lâm Khẳng, thì về đàng sự nghiệp dầu không làm được bậc vĩ nhân, nhưng về đàng đức nghiệp cũng còn làm được bậc thiện nhân, đó chính là bậc anh hùng do chỗ bình thường thiết thực mà làm nên, xem như khó học mà kỳ thiệt là dễ. Thế thì nói ông này làm cái khuôn phép rất tốt, rất thích hợp cho bọn thiếu niên là phải lắm rồi, sau này kể truyện ông Lâm Khẳng.
Trong đỗi đồng rừng về phủ Hoắc Cầm Tư (Hodgensville) thuộc về châu Thiên Đích ý (Kentukey), miền Tây nước Mỹ, có một cái nhà nhỏ, nhà này làm bằng gỗ, gỗ cứ sáp ngang từng lớp mà thành nhà, trước cửa treo tấm da con gấu để làm rèm, không có cửa đóng. Trong nhà có một bếp đất, chung quanh cái bếp thì đủ những chum, đồ dùng, phản ghế, chẳng có bao nhiêu đồ, đủ tỏ rõ ra cái cảnh sinh hoạt người ở chỗ đồng rừng mới khai khẩn. Chủ nhân họ là Lâm Khẳng (Lincoln) tên là Thang Mạch Ty (Thomas)[1] nhà làm nghề thợ mộc, nhân vì có lĩnh đất phở hoang , nên mới cùng người vợ là Nam Tuyết (Nancy)[2] ở đó làm ăn. Trước sinh một gái, cách hai năm nữa là năm 1809 tháng 2 ngày 12, lại sinh một trai. Thang Mạch Ty lấy tên ông mà đặt cho con trai mình, gọi là A Bá Lạp Hãn (Abraham) tức là người 50 năm sau làm Đại tổng thống nước Mỹ là A Bá Lạp Hãn Lâm Khẳng, chủ nhân [3] quyển sách này.

A Bá Lạp Hãn Lâm Khẳng sinh ra mạnh mẽ, lúc mới biết đi, thường đi với chị gái chơi khoảng rừng, cho nên hoạt bát lanh lẹ khác đứa trẻ thường. Thang Mạch Ty người bạo dạn và hiền lành, vì ở chỗ đồng rừng tập nghề săn bắn, thường đem những chuyện mới lạ trong lúc săn bắn giảng cho con nghe. Bà Nam Tuyết tính lại siêng năng, đã lo việc may vá cơm nước trong nhà, lại thường giúp chồng việc săn bắn, tuy rằng nhà tranh vách đất, cơm cháo đủ ngày, mà cái khí tượng trong gia đình rất là tươi tốt. Ông Thang Mạch tuy khi nhỏ chưa vào trường đi học bao giờ, duy có bà Nam Tuyết thì biết chữ, ham xem sách, ông chồng mà có biết chữ ít nhiều là cũng nhờ bà dạy cho. Đến khi Lâm Khẳng đã khôn lớn rồi, thì bà lấy những sự tích cũ trong kinh Tân ước và Cựu ước mà dạy con. Về sau dân làng có mở nhà học dạy ngày chủ nhật, lúc ấy Lâm Khẳng mới 5 tuổi, nhưng vì nhờ sức mẹ dạy ở nhà, cho nên đã được hơn các trẻ khác.
Bà Nam Tuyết dạy con càng hay chú ý về đạo đức. Lúc Lâm Khẳng sáu tuổi đi câu trên khe, được con cá nhỏ, xách về nhà, gặp một người ăn mặc gọn gàng có mang súng, Lâm Khẳng biết là chú lính, liền đem con cá biếu chú lính, về nhà nói việc ấy với mẹ, bộ lấy làm thích lắm, vì bà mẹ thường dậy con rằng binh lính bỏ mình phòng giữ cho nước, ai thấy phải tỏ ý kính trọng, cho nên Lâm Khẳng đem con cá câu được mà cho; là để tỏ lòng kính trọng binh lính đó vậy. Trong làng không có cả nhà thờ chung, khi nào có thầy đạo đi qua đó thì mượn nhà nhà quê mà giảng đạo. Có ông thầy đạo là ái Nhĩ Kinh (Elkin) càng được dân làng kính trọng hơn. ái Nhĩ Kinh hay đến nhà Lâm Khẳng, ăn cơm lúa ngô thịt chim rừng. Sau lúc thầy đạo đi rồi thì Lâm Khẳng cứ bắt chước cách giảng diễn như thế, lên ngồi trên cây hoặc trên bếp đất mà diễn nói tích cũ, trẻ con trong làng cũng thích nghe lắm, người ta nói rằng Lâm Khẳng bình sinh hay diễn thuyết có tiếng mà cái nền nếp đã sẵn từ lúc còn thơ ấu.
Các đức tính con người ta thế nào đều do chỗ gia đình giáo dục và cái tính di truyền của cha mẹ, có ảnh hưởng rất lớn. Ông Lâm Khẳng lúc bé, nhờ mẹ dạy bảo được nhiều, mà ông cha làm nghề săn bắn, lại thường đem việc tai nghe mắt thấy mà dạy cho con, cho nên cái tinh thần mạo hiểm tiến thủ hơn người thường, là cũng gốc từ đó.
Quốc dân nước hiến pháp người nào cũng có cái nghĩa vụ đi lính để phòng giữ nước nhà, bà Nam Tuyết dạy Lâm Khẳng phải kính trọng người lính, thế là trong lúc vô tình đã dưỡng thành được cái tư tưởng quốc gia rồi, dạy con như thế là biết cách dạy.
Một tờ báo nọ ở thành Nữu ước (New-York) đã điều tra những nhân vật lớn lao trong xứ ấy, lúc xuất thân ra thế nào, nói rằng trong số 12 người thì có đến 10 người nguyên không sinh tại Nữu ước, mà trong số 10 người ấy có đến 8 người sinh ra vốn là nhà nông. Việc nầy xem ra kỳ lạ, nhưng vẫn có lý lắm. Vì nơi đô hội lớn, tuy rằng về đằng giáo dục có được nhiều điều sẵn sàng tiện lợi hơn chỗ khác, song vì thói xấu un xông , vật chất mê đồ, làm loạn cái tâm chí thanh niên mà mất hết cái khí khái cứng mạnh, không bằng con nhà thôn quê, cần kiệm ngay thật, được giáo dục tự nhiên để rèn đúc cái tinh hần, lại là phần hơn, cho nên người ở nhà quê không nên bỏ mất cơ hội tốt.
Mùa đông năm 1861, Thang Mạch Ty dọn đi ở phủ Tư Tân Tác (Spencer county) thuộc về châu An Đích Yên Nạp (Indiana) vì là xứ ấy giá đất rẻ, dễ cày cấy làm ăn. Lúc mới đến làm cái nhà lá ba bên có vách, phía trước để trống, người nhà gọi là cái nhà trần, suốt mùa đông năm ấy ở đó. Thang Mạch Ty đã đem vợ con ở tạm cái nhà trần ấy, mới đi kiếm cây đẫn gỗ soạn sửa làm nhà mới. Lúc bấy giờ Lâm Khẳng 8 tuổi, đã biết cầm dao búa làm giùm cho nhà như hình một người thợ nhỏ tập việc, lúc rỗi thì học chữ với mẹ. Nhà nghèo, không sắm được đồ học, lấy lá cây làm giấy, lấy ống lông ngỗng làm bút, nhưng vì siêng tập thì xem cũng có vẻ hay. Ngoài ra lại biết bắn chim để làm món ăn thường, nhưng Lâm Khẳng có tính hiền lành hay thương, một hôm bắn được một con gà rừng, trông thấy máu chảy ruột lòi, lấy làm thảm hại, sợ quá mà khóc lớn, từ đó về sau, mỗi khi đi bắn chỉ đủ dùng thì thôi, không giết nhiều.
Mùa xuân năm sau, Thang Mạch Ty làm xong nhà mới, nhà này cũng làm bằng gỗ xoàng, so với cái nhà cũ ở châu Thiên Đích ý không hơn bao nhiêu. Bọn Lâm Khẳng mấy lâu đã chịu khổ về nỗi mưa gió trống trải, nay được ở nhà này xem không khác lên thiên đường, nhưng bà Nam Tuyết thì vì mệt nhọc sinh đau, thế không khỏi được. Khi bà đau nặng, gọi Lâm Khẳng bảo rằng : “A Bá Lạp Hãn! Tao sắp bỏ mày đi đây, mày đã biết thờ cha kính chị, thì nên gắng làm người tốt như tao dạy mày mọi ngày, nhất là phải kính thờ đức Thượng đế”. Lâm Khẳng vâng lời mẹ dạy, ghi tạc không lúc nào quên, đến sau làm đến Tổng thống đã thành công nghiệp, lừng danh tiếng rồi, mỗi khi nhắc đến việc cũ, thì cứ nói rằng : “Một đời tôi, cái sự nghiệp cùng cái hy vọng, đều là nhờ sức mẹ dạy”. Lễ đưa đám bà Nam Tuyết, vì ở chỗ đông rừng hẻo lánh, không có thầy đạo ái Nhĩ Kinh ở châu Thiên Đích Y đến, bèn viết thư mời sang. Từ châu Thiên Đích Y đến phủ Tư Tân Tắc, xa mấy trăm dặm, mà đường sá lại hoang rậm khó đi, không có nhà trạm gửi thư. Lâm Khẳng phải nhân dịp có người đi mới gửi thấu được. Đến mùa xuân năm sau, ông ái Nhĩ Kinh quả đến ngay, lúc làm lễ đọc kinh, thì dân làng đều khen ông ái Nhĩ  Kinh thật có lòng thành mà Lâm Khẳng thật là có hiếu.
Ông Mạnh Tử có nói “Người ta mà biết suy cái lòng bất nhẫn ra thì nhân đức làm gì hết”. Lâm Khẳng thấy con gà rừng, còn có lòng bất nhẫn trông thấy nó chết thảm hại, huống chi là nỡ thấy đồng một loại chân vuông đầu tròn suốt đời làm nô lệ mà không ra tay cứu vớt? Nếu trái thế, việc nhỏ mà nỡ lòng thì dẫu việc lớn cũng nỡ lòng, mà cái cơ làm hại nhà hại nước đã phục sẵn đó rồi. Vậy cho nên con em đang lúc nhỏ, nên dạy cho nó biết thương xót loài vật nhỏ, bồi đắp lòng lành như thế đã hoá trừ cái tính dữ tợn lung lăng, mà lại dưỡng thành cái tư cách vĩ nhân hay thương người yêu vật.
Những điều tín ngưỡng về đằng đạo đức mà càng vắn tắt thì càng dễ làm theo, không phải nhiều bề bỡ ngỡ. Xưa ông Dụ Tử Dư năm tuổi, đọc sách Hiếu kinh, có người bảo rằng sách Hiếu kinh không bao nhiêu câu bao nhiêu chữ, không học kỹ làm gì cho khổ, ông trả lời rằng : “Hiếu là cội đức, một câu ấy đã đủ, sao bảo không bao nhiêu?”. Lời di ngôn của bà Nam Tuyết dạy con cũng chỉ có vài lời, hiếu cha, thương chị, kính trời mà thôi, không nói chi cho nhiều, thế mà cái cốt để lập thân mình và ứng tiếp với người, đã gần nuốt hết không sót nữa, dạy như thế là biết chỗ cội gốc.
Bà Nam Tuyết đã qua đời, ông Lâm Khẳng trải qua cái cảnh lênh đênh cơ khổ được một năm, ở trong cái nhà thấp giữa rừng hoang. Ban ngày mà có nghĩ gì là nghĩ mẹ mà thôi, ban đêm có thấy gì thì thấy mẹ mà thôi. Lại qua một năm nữa, ông Thang Mạch Ty lại lấy bà Phổ Hy (Bushe) làm vợ kế, bà này chồng trước chết, để lại một trai hai gái, ba đứa con ấy cũng theo mẹ về ở chung một nhà. Lâm Khẳng ở trong gia đình ấy lại càng siêng năng cẩn thận, được bà kế vui lòng.
Khi trước Lâm Khẳng ở châu Thiên Đích Y đã từng học ở nhà học hiệu dạy ngày chủ nhật, đến bây giờ trong làng lại mới mở một nhà học dạy những lúc mùa cày cấy đã xong, Lâm Khẳng cũng theo người ta đến học, nhưng mỗi năm chỉ học được mấy tuần lễ, đến mười bảy tuổi thì thôi không học nữa. Tính suốt cả một đời Lâm Khẳng, cái ngày giờ ôm sách vào trường không đầy 12 tháng. Lâm Khẳng tuy không được vào trường học chuyên, nhưng cái lòng ham học thì như thèm khát, ông nhất ham đọc là sách Tân cựu ước và sách Thiên lộ lịch trình, gặp những chỗ cốt yếu trong sách thì chép vào quyển sổ tay để đọc cho thuộc lòng. Vì thế cho nên cái bụng chữ tuy hãy còn nghèo mà đem ra ứng dụng thì cũng không thiếu nữa. Có một lần Lâm Khẳng đến nhà láng giếng mượn quyển Truyện Hoa Thịnh Đốn, ham xem lắm, tối đi nằm, để đầu giường để mai xem lại, không ngờ đêm ấy trời mưa nhà dột, quyển truyện ấy bị hư nát, Lâm Khẳng phải nói với nhà có sách ấy xin đi làm cỏ ruộng ba ngày để đền giá tiền quyển sách, mà Lâm Khẳng thì giữ quyển sách nát ấy làm của mình. Lâm Khẳng đã được cuốn truyện Hoa Thịnh Đốn, ham xem hơn các sách khác, đi làm trên rừng ngoài đồng cũng đem đi theo, xem đi xem lại có đến hàng trăm lần. Từ đó trong con mắt ông trong lòng ông chỉ một người anh hùng là Hoa Thịnh Đốn, thường nói với mọi người rằng “Đời tôi dù không được như Hoa Thịnh Đốn làm chóp đầu nước Mỹ nữa, thì cũng gắng sức học theo cho được làm một người chân tâm ái quốc”.
Lâm Khẳng đang lúc học hành tập rèn, đã vì nhà nghèo không mua được sách, mà lại cha thì đẵn cây cầy ruộng, thường thường lại nhờ sức con làm đỡ đần, vì thế công việc làm lại bội hơn người khác. Nhưng Lâm Khẳng khéo dùng thời giờ, không bỏ học khi nào, mà cũng không lấy làm khó, ánh sáng lọt vào cửa song, ngọn lửa đốt trên lò bếp, đều là lúc Lâm Khẳng tay cầm miệng đọc lấy làm vui thích. Mỗi khi đọc sách rỗi giờ thì luyện tập thân thể, càng giỏi nghề đua sức, lúc nào dân làng mở hội vận động thì Lâm Khẳng tất được giải đầu.
Lúc 16 tuổi, nhân có việc đến phủ Bồng (Xoonsville) xem toà án xử án, thấy thầy trạng sư bên bị cáo nói cái biện bác, lời lẽ như nước tuôn suối chảy không hết, thì chạy lại nắm tay ông trạng sư mà nói rằng: “Tôi hôm nay mới được nghe diễn thuyết lần này là lần đầu”. Lúc đó Lâm Khẳng mặc áo xấu xí, mình thì cao mà gầy, hai chân trần, ông trạng sư thấy bộ dạng ấy, ra ý khinh thường không để ý đến. Lâm Khẳng bị ông trạng sư khinh thường, mới biết rằng cái xã hội này vẫn là không bình đẳng, cho nên người ta phải rèn mài tài đức làm cho nổi đầu lên trong đám bình thường, chiếm lấy cái địa vị thượng lưu mới được. Bèn mua một bộ sách pháp luật, đem về gia công nghiên cứu để ngày sau ra làm trạng sư.
Xưa nay bác thánh hiền, người hào kiệt, đều là bởi một chữ “siêng” mà làm nên, siêng là buổi nào được việc buổi ấy, đã không phí mất thì giờ, cũng không buông mất cơ hội. Ông Lâm Khẳng chỉ có được giáo dục 12 tháng mà làm được bậc vĩ nhân thế giới, là chỉ vì biết dụng thời giờ đó thôi. Ông Nhạc Phi có câu thơ rằng: “Chớ hỡi lơ, bạc mất mái đầu xanh, luống than thở không thành”. Xin những kẻ thiếu niên phải ghi nhớ lấy. Lâm Khẳng học Hoa Thịnh Đốn, trước hết hãy học cái mẫu mực “chân tâm ái quốc”. Con mắt của anh hùng vẫn khác bọn tài sơ chí rộng.
Xã hội không bình đẳng có hai đàng: về đàng nòi giống không bình đẳng, về đàng tài đức không bình đẳng. Nòi giống không bình đẳng như đời trung cổ bên Âu châu, chia ra đẳng bậc sang hèn, đời đời không thay đổi, làm cho bọn quý tộc thêm thói hung hăng, mà bọn bình dân không có đường tiến thủ, cái chế độ ấy nhất định phải bỏ. Còn như về đường tài đức không bình đẳng, hễ ai có một phần giỏi thì hưởng một phần hơn, như thế đã đủ tỏ ra rằng xã hội báo đáp theo đạo công bằng, mà cũng để thúc giục cho người ta sinh lòng phân tân, như thế thì ở vào đời cạnh tranh sinh tồn này không thể bỏ được mà cũng không nên bỏ.
Ông Lâm Khẳng tức vì ông trạng sư đãi mình không bình đẳng mà quyết lòng nghiên cứu học pháp luật để rửa cái xấu ấy. Thế là ông biết rằng trong xã hội mà không bình đẳng như thế cũng không đáng lo, duy có người ta chỉ cam làm người tầm thường mà không có chí cầu tiến lên, cái đó mới đáng lo trọn đời mà thôi. Những kẻ hay nói bình đẳng đầu miệng nên trông đó làm gương.
Trong khoảng châu Ân Đích Yên Nạp cùng châu Thiên Đích Y, có con sông Nga Hy Nga [Ohia] có cái đò ngang, Lâm Khẳng 18 tuổi vâng lời cha đến làm thuê ở đó, ấy là lần đầu Lâm Khẳng bước chân ra đời kiếm ăn, tiền thuê mỗi tuần là được 2 đồng 5 hào, đều đem về nhà tiêu dùng, không để riêng một đồng nào. Lúc đó ông quan án tên là Tất Kỳ (Pitcher) nhà ở gần sông, trong nhà nhiều sách vở. Lâm Khẳng thường thường đến mượn sách xem, ông Tất Kỳ thấy Lâm Khẳng siêng học, cũng tiếp đãi tử tế. Con sông ấy, khách qua đò cũng không nhiều lắm, Lâm Khẳng mỗi lúc thong thả thì xem sách, lại làm ra những bài luận, ông Tất Kỳ xem văn càng khen Lâm Khẳng lắm, thường thường đem những bài văn ấy đăng vào tờ nhật báo Nga Hy Nga. Lúc ấy Lâm Khẳng tuy là một chú chèo đò, mà đã nổi danh văn sĩ.
Lâm Khẳng làm thuê chèo đò được một năm, đến mùa xuân năm sau, có người khách buôn tên là Khương Đức Lệ (Gantry) mượn Lâm Khẳng chở hàng đến phủ Nữu Nga Liên Ty (New Orleans). Chuyến này lịch thiệp đường xa, trông thấy những núi cao sông lớn, đất nước quê người, đủ làm cho mở tai mắt rộng kiến thức, phá hết những cái kiến thức nhỏ hẹp trong một xó thôn quê.
Lâm Khẳng đã xong việc mà về, bàn với người bạn là Hồ Đức (Woad) muốn biệt lập một chỗ làm ăn. Hồ Đức nói rằng: “ Hãy khoan, chưa vội gì, anh năm nay mới 19 tuổi, người ta mà chưa đến 21 tuổi, thì còn phải làm việc cho cha mẹ, anh hãy ở nhà giúp đỡ cho cha là phải hơn”. Lâm Khẳng cũng không quên lời mẹ dặn phải hiếu với cha, bèn quyết lòng cứ ở hầu cha, chăm lo việc làm ruộng như thường.
Người sinh thế gian này, nên gắng làm việc anh hùng hiện tại, chứ không nên đặt mình làm bậc anh hùng tương lai mà buông mình ra ngoài khuôn phép, đối với cái chức việc hiện tại phải làm, được bao nhiêu thì làm hết bấy nhiêu, không nên bỏ nhãng ra một bước nào, như vậy thì trí thức dần dần tiến lên, danh dự dần dần lập nên, tức là cái nền nếp của sự nghiệp tương lai đó. Xem cái sự nghiệp một đời ông Lâm Khẳng, việc nào mà chẳng do cái chức việc hiện tại mà nung đúc ra. Nếu có đó một cái lòng không thèm làm việc nhỏ, thì cái chỉ viển vông càng ngày càng lớn lên, bụng chán nản cũng nhân cảnh ngộ mà đến, rút cuộc lại tất không thành một việc gì. Cho nên sách nói rằng: “Người mà không có lòng thương, thì dù nghề thầy lễ, thầy thuốc cũng không làm nên”.
Lâm Khẳng nhân đi chơi Nữu Nga Liên Ty về mà nổi lòng hăng hái, muốn phá rào tung vách mà ra, song vì nghe một lời người bạn khuyên bảo mà cứ ở hầu cha như thường, đó là lúc bấy giờ ông Lâm Khẳng không chịu bỏ cái trách nhiệm gia đình, tức là ngay sau không chịu bỏ cái trách nhiệm nước nhà cũng bởi từ đó. Đời xưa nói rằng: “Muốn cầu người tôi trung tất phải tìm ở nhà nào có con hiếu”, câu ấy dầu ở nước Cộng hoà cũng cứ dùng được.

Năm 1830 Lâm Khẳng 21 tuổi, đã thành nhân rồi, theo luật thời được ở riêng, nhưng lúc bấy giờ ông Thang Mạch Ty dời sang ở châu Dịch Luân Nặc (Illinois) cho nên Lâm Khẳng cũng cứ theo cha làm vườn, cày ruộng, cấy lúa, giữ nghề canh nông và thợ mộc. Mùa xuân năm sau lại có một người khách buôn tên là á Phu Thoát (Aifut) thuê Lâm Khẳng chở hàng đến Nựu Nga Liên y.  Lúc ấy Lâm Khẳng tuy đã thành nhân, nhưng còn mặc áo mũ trẻ con, không có tiền sắm đồ khác. Bên làng láng giếng có bà Mễ Lưu (Miller) làm nghề chăn dê kéo sợi, nhà nhiều vải. Lâm Khẳng xin bà ấy may cho một bộ quần áo vải lông dê, mà chịu làm xe cây cọc rào sơ-li để trừ tiền áo, tính ra mỗi một mã (tên thước Anh) vải thì xẻ 400 cọc rào sơ- li, cộng xẻ tất cả 1400 cái cọc rào sơ - li. Đó là lúc Lâm Khẳng mới ra đời, một mảnh vải, một sợi tơ, cũng phải lấy công mà đổi.
Phủ Nữu Nga Liên Ty là nơi Lâm Khẳng đi lần trước, chuyến này cũng không gì lạ, chỉ có chuyến này ở lâu, mới được thấy người miền Nam buôn bán bọn mọi đen, tình trạng rất thảm hại, họ lấy dây sắt buộc xâu lại, đàn bà trẻ con cứ từng xâu từng bầy, bày hàng mà bán, mua xong thì về theo chủ, phải làm khổ sở trọn đời. Lâm Khẳng thấy mà động lòng thương xót, nói với người ta rằng: “Nếu tôi mà được có địa vị, thì tất bỏ hẳn phép này, không quản công khó”.
Vừa dịp ấy ông áo Phu Thoát mở một cửa hàng buôn bán ở Nữu Tát Luân (New salem), thuê Lâm Khẳng làm việc cửa hàng ấy. Lâm Khẳng ở cửa hàng, mềm mỏng ngay thật, những khách mua bán ai cũng ưa. Một hôm, có người khách đến mua đường, trả tiền thừa ra 5 xu, Lâm Khẳng vì lấy lầm món tiền mà trong lòng áy náy suốt ngày, đến buổi tối, đóng cửa phố rồi, dầm mưa gió mà đi, để trả lại 5 xu cho người khách ấy. Lại một buổi tối có người đàn bà đến mua lá chè nửa hoàng (cân lượng Anh) lúc ấy thì ngọn đèn lu đã gần tắt. Lâm Khẳng vội vàng nhắc cân cân cho, đến sáng mai, xem lại hòn cân, mới biết rằng để lầm hòn cân, lá chè chỉ được phân nửa mà thôi, vội vàng hỏi thăm chỗ ở người đàn bà ấy đem chè đến trả cho. Hai việc ấy đương thời đồn ra làm câu chuyện tốt, đến ngày sau Lâm Khẳng chết rồi, các nhà trường tiểu học nước Mỹ đem hai việc ấy làm thơ ca, lại đem ra diễn tuồng. Lâm Khẳng đã thật thà ngay thẳng được nhiều người ưa mà lại có sức mạnh, ham làm nghĩa hiệp, cho nên khi nào có đám tranh nhau đánh nhau tất mời Lâm Khẳng đến hoà giải, nếu việc nào mà miệng lưỡi không xong, thì dùng tay võ để trị quân hung bạo. Song những kẻ bị phải cũng không dám oán, vì Lâm Khẳng cứ lẽ công bằng. Đến sau áo Phu Thoát vỡ nợ, đóng cửa, Lâm Khẳng mới thôi việc mà về.
Phàm người hay chịu ân huệ, thì tất đến dưỡng thành cái tính mong nhờ, không cầu tự Lập. Lâm Khẳng tuy nghèo mặc lòng, chưa chắc đã không có ai sẵn lòng giúp đỡ, song Lâm Khẳng một tấm áo quần đều lấy công mà đổi chứ không chịu mang ơn ai, đó chính là chỗ Lâm Khẳng khác hơn người. Những kẻ thiếu niên mà muốn lập thân thành danh thì nên đứng cho vững chân ở chỗ đó.
Cửa phi nghĩa thì dẫu một mảy cũng không đem cho người ta, một mảy cũng không lấy của người ta, muốn phân biệt đàng nghĩa đàng lợi cho rạch ròi, thì phải từ chỗ đó làm trước. Năm đồng xu tuy của không bao nhiêu, nhưng về đàng thiên lý hay nhân dục, cái bờ cõi tại đó; người thiệt hay người giả, cái máy chốt tại đó; không giữ giàng sao được!
Sức võ cũng là cái đồ đạc của làng nho giả dùng để phòng giữ cho đạo đức, không thiếu được đâu, chỉ nên dùng làm sao cho đáng mới dùng, chớ không nên hung hăng hay gây sự với người để thêm lo cho cha mẹ mà thôi, xem ông Lâm Khẳng trị đứa hung bạo cho thẳng lẽ công bằng, thế là biết dùng võ một cách chính đáng.
Đương thời ấy, các châu miền Tây nước Mỹ, dân mọi da đỏ hãy còn nhiều, trong bọn mọi ấy có bọn mọi Tát Khác (Sac) nguyên ở cõi bắc châu Dịch Luân Nặc, vì không chịu nổi giống người da trắng lấn lướt mà phải trốn tránh đi ở miền khác, song cái lòng phục thù vẫn không lúc nào quên. Năm 1832 dân mọi ấy tôn một người làm đầu, gọi là Hắc Ưng (Black - Havok) để nổi loạn, trong sử gọi rằng cuộc chiến tranh Hắc Ưng. Khi quân Hắc Ưng đã nổi lên, Lâm Khẳng ra làm đội trưởng lính nghĩa dõng, để giúp quân chính phủ dẹp loạn. Lâm Khẳng chưa từng tập việc quân bao giờ, mà lính tráng đều dân quê mới ra, cùng là khờ khẫn khó quản thúc tập luyện, nhưng vì Lâm Khẳng đối với bạn lính rất tử tế, mà lại thẳng phép, không riêng bênh ai, cho nên người ta phải kính sợ. Một hôm có một người mọi đỏ cầm cái thư đến trước dinh, trong quân đều nghi nó giả dối, quyết ý giết chết, đang dơ súng sắp bắn, Lâm Khẳng chạy vào đứng án trước mặt tên mọi mà nói rằng: “Tôi quyết bảo hộ người này, ai giết nó thì phải chết”, như thế mà trong quân không ai dám động cả. Có người mất việc lúc bấy giờ, sau ra nói với người khác rằng Lâm Khẳng bình sinh bộ dạng ăn nói hiền hoà, chưa thấy lúc nào nghiêm nghị như lần này.
Lâm Khẳng làm một việc gì cũng không bỏ nửa chừng, làm đội lính dõng được vài ba tuần lễ thì đội lính ấy hết hạn đổi ban, đều bãi về nhà, mà Lâm Khẳng lại đi làm lính kỵ mã, mãi cho đến Hắc-Ưng bị bắt mới thôi. Lần ấy cũng chỉ vài ba tháng, Lâm Khẳng chưa được lần nào ra đối trận với giặc để tỏ rõ cái khí phách làm trai, nhưng cái khí bạo dạn, cái tài cầm binh coi quân, thì đã đủ cho người ta kính phục.
Sách nói: “Không khinh kẻ yếu hèn, không sợ đứa hung dữ, ấy mới là đại dõng”, xem Lâm Khẳng, cứu tên mọi đỏ, thì thiệt được như thế. Làm việc không bỏ nửa chừng là cái phương pháp “có một” để làm cho thành công, vì rằng làm việc gì cũng phải lâu thì mới có kinh nghiệm, mới biết thú vị, vì thế cho nên ông Nã Phá Luân, bàn việc đánh trận, có nói rằng: “Đánh nhau thua hay được chỉ xem 5 phút đồng hồ sau hết mà thôi”.
Lúc Lâm Khẳng về đến Nữu Tát Luân vừa gặp kỳ bảo cử nghị viên châu ấy, Lâm Khẳng lấy cái tư cách người ứng cử, mà diễn thuyết tại phủ Ba Bát Tư (Pappasville) để bày tỏ cái ý kiến chính trị của mình, lời diễn thuyết rằng:
“Thưa các ông, tôi cũng biết rằng các ông đã biết tôi là người thế nào rồi. Tôi là A Bá Lạp Hãn, là một anh nghèo kiết, vì ông bạn tiến cử ra ứng cử chuyến này, theo cái chính kiến của tôi thời có ba điều: Một là lập ngân hàng của quốc dân, hai là cải lương việc nội trị, ba là định ngạch thuế bảo hộ nội hoá. Đó là cái ý kiến chính trị của tôi, mà cũng là cái lương tri cảm giác của tôi. Nếu tôi được ra làm nghị viên, thì cảm ơn các ông lắm, mà nếu không được thì cũng cảm ơn các ông như vậy”.
Lâm Khẳng diễn thuyết như thế, rõ ràng vắn tắt, ai nghe cũng thích, nhưng kỳ bầu cử ấy chưa trúng tuyển, Lâm Khẳng mới ra nhận chức nhà bưu điện ở Nữu Tát Luân, nhà bưu điện ấy chỉ trong hai năm thì bãi. Lúc ấy bạc kho hãy còn mười bảy đồng tại tay Lâm Khẳng, mà sở bưu điện lớn chưa cho người đến thâu. Cách mấy năm sau, Lâm Khẳng dời ở phủ Tư Bách Lâm Phi (Spring Pield) thì mới có người đến thu bạc. Lâm Khẳng đem một cái bao vải ra, nói rằng: “Bạc đó”, mở ra thì đồng bạc đồng xu, mấy trăm đồng đều là của dân quê mua tem, đếm lại đúng như số, không sai đồng nào, xem đó thì biết Lâm Khẳng tuy lúc túng nghèo, không hề dùng đến một đồng của công.
Lâm Khẳng đã thôi chức bưu điện, làm chức đo đất ở Tán Cách Mông (Sangamon). Đến kỳ bầu cử nghị viên lần sau, được cử làm nghị viên bản châu, làm luôn hai khoá. Lúc ấy châu Dịch Luân Nặc đặt trị sở tại Phàn Đạt Lợi á (Vandalia) tiếp giáp với biên giới phiá nam, người trong châu đều cho là không tiện, nhân Lâm Khẳng xướng nghị, bên đời đến Tư Bá Lâm Phi. Người Tư Bá Lâm Phi cảm ơn Lâm Khẳng, bèn mời Lâm Khẳng sang ở đó, bấy giờ là năm 1837, Lâm Khẳng 28 tuổi. Lẩm Khẳng từ khi trước ở phủ Bồng vì việc ông trạng sư mà có công học phép luật để làm việc trạng sư, cái chí ấy vẫn không lúc nào quên, lúc ở Nữu Tát Luân có làm văn tự đơn trạng cho người ta, đã nghiễm nhiên ra mặt về đàng dân sự kiện cáo văn án; làm như việc trang sư, việc này có chí rèn công đã mười năm, nay được đạt cái mục đích, thì lòng ông vui thích biết chừng nào! Từ đó về sau, Lâm Khẳng làm nghề ấy 21 năm. Ông học thông pháp luật, là tự mình nghiên cứu lấy, chứ không vào nhà học hiệu học với danh sư bao giờ. Kể cái học vấn ấy cũng không giỏi gì lắm. Vả lại, lấy giá rẻ, vừa không nhận những án kiện trái phép, cho nên được lợi chẳng bao nhiêu, mỗi năm được 2000 đồng mà thôi. Song những người đồng nghiệp và những kẻ giúp việc, ai cũng kính trọng cái đức hạnh của ông, đến quan bồi thẩm cũng ưa ông ngay thật. Danh tiếng càng ngày càng nổi. Kẻ quen biết kẻ không quen biết đều khen rằng “A Bá Lâm Khẳng ngay thiệt” (Honest abe Lincoln).
Lâm Khẳng diễn thuyết lúc ra ứng cử, lời lẽ ngay thẳng biết bao, đời nay những bọn cầu quan xin việc, đến cửa riêng thì hót nịnh một cách đê hèn, ra công đường thì tô chuốt những lời nói tốt, cái nhân cách bọn ấy so với Lâm Khẳng khác nhau xa biết bao!
Ông Trâu Nam Cao nhà nho giả đời Minh có nói rằng : “Người mà không chịu chìm đầu thì dầu ở trong 18 tầng tối đen cũng có thể cất đầu lên giữa mây xanh được”. Lâm Khẳng từ khi 16 tuổi đã có chí học làm luật sư, giữa chừng bị bao nhiêu sự ngăn trở, chịu bao nhiêu nỗi khốn khó, thế mà đeo đuổi mãi làm đạt được mục đích, thế thì cảnh ngộ có làm khốn được người đâu, chỉ sợ người không có chí mà thôi. Còn như chức nghiệp hiện tại của mình không hại gì đến chí nguyện tương lai, thì bài trên kia đã phát minh rồi, lẽ rất rõ ràng.
Người Âu Mỹ hay trọng danh dự, người nước ta đời xưa cũng trọng danh tiết, ở dưới chữ danh có để chữ tiết thì chữ danh càng có sự thực. Vì rằng danh dự không nên mua chuốc, tất phải lấy tiết hạnh của mình làm gốc, xem Lâm Khẳng xử trí số bạc nhà bưu điện như thế thiệt đáng hai chữ danh tiết.
Lâm Khẳng khi ở Tư Bá Lâm Phi, lại ra làm nghị viên hai lần, nổi danh tiếng trong các đoàn thể chính trị châu ấy. Nguyên nước Mỹ có hai chính đảng lớn ; một là đảng Dân chủ (Démocrat party) hai là đảng Huy Cách (Whigs party) , hai đảng tranh nhau tại các vấn đề thuế nhập cảng. Đảng Dân chủ phần nhiều là các nhà nông miền nam, lợi dụng ngoại hoá nên chủ trương nhập cảng tự do; Đảng Huy Cách phần nhiều là nhà chế tạo ở miền Bắc, đề xướng nội hoá, nên chủ trương đánh thuế ngoại hoá. Song đảng này ra đời muộn, thế lực kém đảng kia nhiều, đến khi Lâm Khẳng vào đảng Huy Cách rồi sau đảng ấy mới nhiều nhân tài, đua nhau với đảng Dân chủ.
Năm 1840 ông Cáp Lợi Tôn (Harison) được cử làm Đại tổng thống nước Mỹ, chính là người trong đảng Huy Cách. Lần bầu cử ấy cạnh tranh rất dữ, trong sử gọi rằng: “Cuộc tranh cử nhà gỗ” (Hog cabin Compaign), vì Cáp Lợi Tôn vốn nghèo, sinh ở cái nhà gỗ, cho nên bọn đối địch lấy câu đó mà cười. Lúc đó Lâm Khẳng là người lãnh tụ đảng Huy Cách ra bỏ phiếu cử tổng thống, đi khắp các miền kẻ chợ nhà quê diễn thuyết nhiều lắm. Lâm Khẳng cùng với Đỗ Cách Lôi (Dulas) là người đối địch nhau trên diễn đàn cũng bắt đầu từ lúc đó. Cách hai năm nữa Lâm Khẳng 33 tuổi, cùng nữ sĩ là Mã Lợi Thao Đức (Mary Todd) kết hôn. Hồi đó Lâm Khẳng tuy vẫn là người có danh tiếng về chính trị và pháp luật, song về đàng sinh kế hãy còn túng thiếu. Lúc lấy vợ, ở trọ nhà hàng, một tuần lễ tiền ăn và ở chỉ hết bốn đồng. Sau mới làm được một cái nhà mà ở, ăn tiêu cũng không hơn bậc trung thường, mà bà Thao Đức lại càng vui thú thanh bần, nói rằng: “Tôi lấy được người hiền năng, nhiều hy vọng về sau, thì dẫu cơm rau áo vải cũng thích hơn gấm vóc ngọc vàng”. Đến năm 1847, Đảng Huy Cách cử ông Lâm Khẳng làm nghị viên trong quốc hội, từ đó cái nghề sinh nhai chính trị lại tiến một bước.
Trong lúc Lâm Khẳng làm nghị viên quốc hội, có một việc đủ làm chứng rằng người có nết thanh liêm tiết kiệm. Lúc đầu đảng Huy Cách thấy Lâm Khẳng nghèo, cho nên trong kỳ bầu cử, lấy tiền công cấp cho 200 đồng để làm phí tổn về việc đi các nơi diễn thuyết. Đến lúc việc đã xong, một người đảng viên nhận được bức thư và 99đ25, trong thư nói rằng: “Tôi đi chuyến này, cỡi con ngựa nhà, cứ tối thì trọ nghỉ ở nhà anh em bạn, thành ra chỉ tốn có một món tiền là 0đ75 là tôi mua nước chanh uống mà thôi”.
Lúc nước Mỹ mới mở nước, rừng núi nhiều mà dân cư ít, những vật liệu làm nhà đều lấy ở trong rừng, Cáp Lợi Tôn sinh ở nhà gỗ, đến sau Lâm Khẳng cũng sinh ở nhà gỗ, từ đó người đời không dám khinh nhà gỗ là quê kệch nữa.
Người đời kén rể chọn chồng, chỉ cứ trước mặt mà không biết xem mai sau, bà Thao Đức bằng lòng lấy Lâm Khẳng, bảo rằng người hiền năng mà nhiều hy vọng về sau, thiệt là một người tri kỷ của Lâm Khẳng. Người tri kỷ ở với nhau thì tự nhiên tâm đầu ý hợp, công nghiệp một đời Lâm Khẳng được sức nội trợ cũng chẳng phải ít đâu.

Lâm Khẳng vào chân quốc hội, chính là lúc vấn đề nô lệ đang rắc rối nhùng nhằng, mà công nghiệp của Lâm Khẳng thống nhất cả miền Nam Bắc lập lại nước Mỹ, cũng cốt ở bỏ cái phép nô lệ, vậy nay hãy thuật gốc nguồn phép nô lệ và cái hiện trạng lúc bấy giờ để làm cái tiền đề cho kẻ đọc sử chính trị của Lâm Khẳng.
Khi trước vua nữ hoàng nước Anh là Phi Lý Tra Bạch (Elizabeth) bắt bọn mọi da đen ở châu Phi đem về tỉnh Vật Nhĩ Cát Ni á (Virgina). Người Mỹ mà nuôi bọn nô lệ là từ đó, tức là trước khi Lâm Khẳng làm nghị viên quốc hội 210 năm, nước Mỹ còn chưa thành lập. Đến sau cái thói ấy dần dần lan rộng ra, những tỉnh nuôi nô lệ càng nhiều. Lúc nước Mỹ đã xong cuộc độc lập, ở các châu miền Bắc, như Tân Nhĩ Ni A (Pennsylva) Nữu ước (New York), Tân Anh Luân (New England) trước hết ra lệnh cấm, sau các châu khác cũng cấm theo, rồi từ đó phía bắc con sông Nga Hy Nga (Ohio) không còn tăm bóng bọn nô lệ nữa, vì khí hậu và kinh tế, đường lợi hại khác nhau, cho nên một châu nào mới nhập vào Nghị viện nước Mỹ thì cứ cãi nhau cái vấn đề nô lệ. Các châu miền Bắc, nhiều cửa bể, cho nên đối với việc nuôi nô lệ, cho là sai thiên lý, trái nhân đạo, cứ muốn ngăn cấm việc ấy. Còn các châu miền nam thì thịnh nghề nông, đất tốt ruộng nhiều, trồng mía, trồng lúa, trồng bông, thường nhờ vào mồ hôi nước mắt bọn mọi đen mới xuất sản những món ấy.  Vả chăng, từ khi máy sợi máy dệt đã phát minh, dùng bông càng nhiều, nghề trồng bông càng thịnh, thì dùng nô lệ lại càng đông, các chủ càng muốn mở mang cho cái phạm vi thêm rộng lớn ; như những châu Thiên Đích ý (Kentukey), châu Điền Nạp Tây (Tennessee), châu á Nạp Ba Na (Alabama), Lỗ Tây Yên Nạp (Louieiana) đều là mới gia nhập sau khi nước Mỹ độc lập rồi, mà đều là những chỗ có nuôi nô lệ cả.
Năm 1821, châu Mật Tô Tý (Missouri) gia nhập nước Mỹ, người miền Nam lại muốn lấy châu ấy làm chỗ nuôi nô lệ, mà người miền Bắc thì phản đối, trong quốc hội cãi nhau rất dữ. Sau hết do ông Hanh Lợi Khắc La xuống nghị, mới quyết định từ châu Mật Tô Tý trở sang bắc nhất luật cấm dùng nô lệ, còn từ đó trở sang nam thì cho phép dùng, thế là việc đó xong xuôi, gọi là cái án điều đình Mật Tô Tý đã thông qua trong Nghị hội, rồi sau còn có chỗ được phép dùng nô lệ là châu Đắc Tán (Texas). Vừa lúc nước Mỹ đánh thắng nước Mặc Tây Ca (Mexico) lấy được ba châu Gia Lợi Phúc Ni á (California) và Tân Mặc Tây Ca (Nevv Mexica), Ô đài (Utah) mà ba châu ấy có được phép dùng nô hay không lại là một vấn đề nam bắc tranh nhau càng kịch liệt hơn lần trước. Lúc đó Hanh Lợi Khắc La lại xướng ra bốn điều kiện để điều đình: 1. Gia Lợi Phúc Ni á để làm đất tự do (nghĩa là không dùng nô) 2. Tân Mặc Tây Ca và Ô Đài cho phép dùng nô: 3. Bỏ cái chợ bán bọn nô lệ ở Ca Luân Tỷ A (Columbia). 4. Định lại luật phạt bọn nô trốn, đó là án điều đình năm 1850.
Hai miền nam bắc đã nhân cái vấn đề nô lệ mà đứng vào địa vị phản đối nhau, mà đảng dân chủ cùng đảng Huy Cách cũng chiếm lấy phần đất nam bắc, cho nên phần nhiều người trong đảng Huy Cách cũng phản đối phép dùng nô lệ, song lúc bấy giờ Lâm Khẳng còn ẩn tiếng chưa ra. Đến năm 1854, hai châu Vũ Tát Tư (Kansas) và Nội Bố Lạp Tư Gia (Nebraska) mới gia nhập nước Mỹ, Quốc hội bèn bỏ cái án điều đình Mật Tô Lý, cái vấn đề nô lệ để cho dân các châu tự định lấy, phá hết những điều trong pháp luật hạn chế, lúc ấy rồi Lâm Khẳng mới khởi lên, để xướng nhân đạo, làm một vị cứu tinh trong chỗ địa ngục, để chóng với cái phong trào ấy.

Cái thói mua người làm nô lệ không những trái với nhân đạo mà thôi, cứ lấy chủ nghĩa kinh tế mà nói, nô lệ đối với chủ nhà, lợi hại không quan hệ với nhau, thì công ăn việc làm tất không xứng đáng, trí thức không mở mang, dạy bảo thì nghề nghiệp tất không hay giỏi gì, cái lẽ ấy nhà học giả nước Anh là á Đơn Tư Mật (Adam Smith) đã nói tỏ tường. Người Mỹ nuôi bọn nô lệ mà nên giàu có, chẳng qua là những miền rừng hoang mới phở, được cái hiệu quả nhất thời như thế mà thôi, không có thể lâu dài mà có lợi ích được, thế mới biết cái kiến thức của Lâm Khẳng là cao. Xem sử nước Mỹ, đầu tiên xướng nghị bỏ phép nô lệ là ông Hoa Thịnh Đốn và ông Triết Phí Sum (Jefferson), sau lại có ông Gia Lợi Tôn (Garrison) sáng lập hội “Bài nô” (Antislavery Sociéty) thanh thế càng thịnh, đến Lâm Khẳng mới làm trọn công việc. Không có người làm trước, dầu đẹp mấy cũng không tỏ ra không có người làm sau, dầu thịnh mấy cũng không truyền, được bậc hiền nhân quân tử dụng tâm, trước sau sáng chói trong sử sách.

Cái án điều đình Mật Tô Lý mà xoá bỏ đi, là tại Đỗ Cách Lôi. Lúc đó Đỗ Cách Lôi làm nguyên lão nghị viên, do châu Dịch Luân Nặc cử ra, đến lần bầu cử kỳ sau, thì đảng Dân chủ cũng bầu Đỗ Cách Lôi ra làm lại, mà Đảng Huy Cách thì cử Lâm Khẳng ra làm, cho nên cuộc tuyển cử cạnh tranh của hai người ấy lấy cái vấn đề nô lệ làm gươm giáo đánh nhau ở trên diễn đàn. Đỗ Cách Lôi thì bênh vì việc trước, bảo rằng cái phép nô lệ có nên để hay bỏ chỉ tùy cái khí hậu trời cùng cái lợi ích của dân ra thế nào. Đỗ Cách Lôi lại mượn tiếng: “Điều hoà năm bắc giữ gìn cuộc thống nhất” mà lót miệng, lời nói nghe cũng có lẽ. Còn Lâm Khẳng thì chỉ lấy tự do và chính nghĩa mà đánh lại, có những câu như sau này:
“Những ông lão thành kiến quốc ta khi xưa ký tên vào lời tuyên ngôn độc lập, bảo rằng hễ đã là loài người, thì lúc sinh ra đều là bình đằng, ai cũng được trời phú tính mà có cái quyền tự do sinh hoạt, cầu cho vui thích một đời. Lời tuyên ngôn độc lập đó thiệt là một vị phúc tinh của loài người, trải bao nhiêu kiếp không mòn đứt được, sao bây giờ người lại phá hoại đi?”.
Lần này cuộc diễn thuyết cứ đổi chỗ mãi, cái cách ăn nói của hai người không ai hơn ai kém. Đỗ Cách Lôi thì già lời. Lâm Khẳng thì già lẽ, Đỗ Cách  Lôi hay viện lẽ đủ mọi bề, Lâm Khẳng thì cứ nghĩa to lớn mà nói. Đỗ Cách Lôi mình thấp ngắn mà khôn khéo, Lâm Khẳng bộ cao dài mà nghiêm nghị, hai bên gạn hỏi cãi cọ hết lời hết lẽ, thiệt là một cuộc biện luận trong bộ sử chính trị nước Mỹ từ trước chưa có bao giờ. Đến sau Đỗ Cách Lôi tuy được cử lần nữa, song Lâm Khẳng hết lòng nhiệt thành để bênh vực công lý, gọi tỉnh cái tâm của mọi người, vì mấy trăm vạn mọi đen chìm đắm trong bể khổ lâu nay, đem lời kêu khóc ; lời diễn thuyết ấy đăng trong các báo cả nước đều truyền tụng, ai cũng nói rằng : “A Bá Lâm Khẳng thiệt thà đã đánh đổ được Đỗ Cách Lôi khôn quái bướng bỉnh”.
Lâm Khẳng đã đánh được Đỗ Cách Lôi ở trên diễn đàn, rồi thì tổ chức đảng Cộng hoà. Chủ nghĩa đảng ấy cốt phản đối cái chính sách mở rộng những miền đất được quyền dùng nô lệ, các đảng viên phần nhiều do đảng Huy Cách kéo nhau vào, mà hội “Bài nô” và đảng “Dân chủ” những người đồng một tôn chỉ ấy đều ứng theo. Tháng 5 năm 1856, mở hội thành lập ở phủ Bộ La Ninh Đôn thuộc về châu Dịch Luân Nặc. Lâm Khẳng làm lãnh tụ danh tiếng lừng lẫy khắp cả nước. Song người phương Nam thì ghét lắm, họ gọi tên là “đảng Cộng hoà đen”. Năm ấy vừa kỳ bầu cử tổng thống, về đảng dân chủ thì Đỗ Cách Lôi cũng có danh vọng, nhưng vì xướng nghị bỏ cái án điều đình Mật Tô Lý, mà những người miền Bắc trong đảng không bằng lòng, cho nên kỳ bầu cử tổng thống này bị người đồng đảng là Bồ Khước Nam (Buchnan) đoạt mất. Trong hạn Bồ Khước Nam làm tổng thống, cái vấn đề nô lệ cũng cứ nhùng nhằng không quyết, ý kiến miền nam bắc chống nhau càng mạnh. Đến 4 năm, Bồ Khước Nam hết hạn, cái việc to lớn khó khăn của nước Mỹ không giải quyết được, mới đổ dồn vào một thân Lâm Khẳng.
Nhà chính trị nào hay dùng quyền thuật, thì thường thường đến mất cả chỗ căn cứ, trước sau thành ra người hai đoạn, Đỗ Cách Lôi xướng bỏ cái ăn điều đình Mật đô Lý, chẳng qua muốn mua lòng đảng Dân chủ miền nam, dùng cái thủ đoạn giật lấy chính quyền mà thôi, nhưng ngờ đâu việc đó làm cái dây chuyền ngòi cho cuộc nam bắc đánh nhau, mà chính cái bản thân cũng bị đảng mình công kích, đến phải thất bại mà về. Tuy sau lúc cuộc chiến tranh sắp gây ra, Đỗ Cách Lôi bôn tẩu điều đình, mệt nhọc quá mà chết, cũng có tiếng tốt để đời sau, nhưng không khỏi cái tiếng chê rằng: “Khéo quá hóa vụng”.
Tăng Quốc Phiên có nói: “Người trật tự xem nơi nói phô, kẻ trung hay nịnh xem nơi miệng lưỡi” Nay xem cái thái độ Lâm Khẳng và Đỗ Cách Lôi diễn thuyết thì ai phải ai trái, ai nên ai hủ chẳng phải đợi đoán xét mới biết. “Lâm Khẳng thiệt thà đánh được Đỗ Cách Lôi khôn khoan, bướng bỉnh”, câu nói này đủ cho những người lòng ngay trong thiên hạ được thở hơi một chút.
Kỳ bầu cử tổng thống năm 1860, tức là cái cửa ải sống thác của cái phép nô lệ và cái vấn đề nam bắc nước Mỹ, cho nên người trong các đảng lựa ra ứng cử đều là người danh tiếng lớn. Ra ứng cử tổng thống có 4 người. Đảng dân chủ là đoàn thể lớn nhất, chia ra hai phái; 1 phái cử Đỗ Cách Lôi, một phái cử Bội Lắc Khẳng Lý Trị (Breckinidge). Một phần ít người đảng Huy Cách cũ đổi ra đảng “Thống nhất” thì cử Bồ Nhĩ (Bell), mà Lâm Khẳng thì đảng Cộng hoà chọn ra ứng cử Tổng thống, Lâm Khẳng có những cái chính cương như sau này:
1. Các đất nước Mỹ đều nên giữ cái hiện trạng tự do.
2. Trừ những miền đã có sẵn cái phép nô lệ ra, còn từ rày về sau, các cơ quan lập pháp trong nước không được quyết định cái luật dùng nô lệ nữa.
3. Châu Vu Tát Tư nên để làm châu tự do mà nhập vào Liên bang nước Mỹ.
4. Việc buôn bán nô lệ thì pháp luật cho là một cái tội ác trái hẳn nhân đạo.
Tháng 5 năm ấy, đảng Cộng hoà châu Dịch Luân Nặc (Illinois) mở hội bầu người ứng cử tổng thống ở phủ Địch Tạc Đạc (Decatur). Ông Châu trưởng đang lúc giới thiệu Lâm Khẳng cho các đại biểu của các đoàn thể, tỏ bày cái chính kiến của Lâm Khẳng, thì bỗng thấy một ông lão nhà quê râu tóc bạc trắng, bước vào trong hội trường, làm cho trong hội càng thêm vui thú. Người này tên là Hán Khắc Tư (Hanks) là bạn cũ Lâm Khẳng lúc làm thợ mộc, trên vai vác hai phiến gỗ sơ -li, treo một lá cờ nhỏ có mấy chữ : “A Bá Lạp Hán Lâm Khẳng, thợ mộc đeo sơ -li, năm 1860 ra ứng cử Đại thổng thống” “Hai phiến gỗ sơ- li này làm từ năm 1830, lúc ấy Lâm Khẳng với Hán Khắc Tư cùng làm 3.000 phiến gỗ sơ - li như thế”.
Lâm Khẳng thấy lá cờ ấy, thì thuật tại sao cho công chúng nghe những chuyện lúc thiếu niên cùng cái lịch sử làm thợ mộc đồng thời với Hán Khắc Tư, lúc đó hết thẩy trong hội trường đều reo mừng. Lâm Khẳng liền nổi tiếng một người trước làm thợ mộc mà được ra ứng cử Đại tổng thống. Vì Lâm Khẳng nguyên là con nhà nông mà nay được ra ứng cử tổng thống, ông bạn già lấy làm vinh lắm, nên mới làm cái lễ mừng mới mẻ như thế, mà quốc dân cũng biết rằng cái công danh của Lâm Khẳng là từ chỗ muôn cay nghìn đắng phấn đấu mà được, cho nên ai cũng phải động lòng kính yêu.
Trong tháng ấy, đảng Cộng hoà lại mở hội dự tuyển toàn quốc ở Chi Gia Ca (Chicago) thì tên Lâm Khẳng cũng được nhiều phiếu hơn. Đến tháng 11 đến kỳ chính thức bầu cử, Lâm Khẳng bèn nối chức Bồ Cước Nam làm Đại tổng thống lần thứ 16 nước Bắc Mỹ, đến tháng 3 năm sau, làm lễ nhận chức ở nhà hội nghị tại đô thành Hoa Thịnh Đốn.
Thợ mộc ra ứng cử Tổng thống tại nước khác thì chắc là lấy việc ấy làm xấu hổ mà giấu giếm đi, mà tại nước Mỹ thì lại lấy làm vinh mà truyền tụng ra, thế mới biết nghề nghiệp là thánh thần mà cái tinh thần chính trị bình dân vẫn khác.
Lâm Khẳng đã nhận chức Tổng thống bắt đầu làm cái đầu bài khó thứ nhất là cuộc Nam Bắc đánh nhau. Đương lúc cạnh tranh bầu cử Tổng thống đang kịch liệt, thì đảng Dân chủ miền Nam đã rao lên rằng nếu đảng Cộng hoà mà thắng thì cái quyền lợi của người miền Nam được phép dùng nô, tất bị bóc lột hết, nếu không bỏ cuộc đồng minh mà rút ra thì không thể giữ mình được. Vậy cho nên lúc Lâm Khẳng đã bị cử làm Tổng thống, thì việc bố cáo độc lập của các châu phương Nam cũng đồng thời phát sinh. Trước hết gây mối ra là châu Gia La Lý Nã (South Carolina) sau thì Mã Sĩ Thất Tờt (Masisipi), Ta Tri A (Géorgia), A Lạp Ba Ma (Alabama), Phật La Lý Đát (Florida) Lỗ Tây Yêu Đạt, 5 châu ấy tiếp theo ; rồi lại 5 châu khác nữa cũng theo vào, tất cả 11 châu kết đồng minh, gọi là Mỹ Lợi Kiên Liên bang (The confédérate States America) định ra hiến pháp, giữ gìn cái phép tự do mua bán bọn nô lệ, bầu cử Đại Vệ Tư (Jeffersond Davis) làm Đại tổng thống, lấy phủ Lý Sĩ Mãn (Richmond) làm đô thành. Chính phủ liên bang đã thành lập, chiếm các nơi hiểm yếu, giữ các pháo đài, mọi việc đều tiến bộ. Đến lúc Lâm Khẳng nhận chức thì những pháo đài đất miền Nam mà quân Bắc còn giữ được chỉ có hai chỗ là Tán Đích (Santer) và Tất Căn Tư (Pickens) mà thôi. Tuy vậy, Lâm Khẳng còn lo việc điều đình, bài diễn thuyết lúc nhận chức hãy còn cần quyền khuyên bảo người phương Nam, mỗi chữ mỗi giọt nước mắt, lời rằng:
“Các anh em ơi! Nước nhà của chúng ta không thể nào chia xẻ ra được, nếu vì chính kiến khác nhau thì sao không cùng nhau bàn định lại? Tôi thử hỏi các ông sau khi đã chia xẻ ra rồi, cái phương pháp hiệp nghị có hơn gì mấy lâu nay không? Tôi lại hỏi các ông, cùng nước khác kết điều ước, so với cùng bạn bè định pháp luật, đàng nào là nghịch, đàng nào là thuận? Các ông vì tức giận nhau mà gây ra đánh nhau, nhưng mà việc đánh nhau không thể kéo dài mãi được, đến khi hai bên đều đã hết hơi hết sức, thì các ông phải nghỉ đánh ngay, lúc bấy giờ cái vấn đề của các ông cần phải đợi hiệp nghị có phải cái vấn đề gì khác không, hay là cũng một vấn đề như ngày nay đó thôi? Này, anh em đông bào ta ơi! Nay mà gây ra cái họa nội loạn, trách tại các ông, chứ không phải tại tôi, chính phủ đối với các ông thiệt không có ý lấn cướp, nếu các ông đừng gây điều ra thì việc nội loạn làm sao mà nổi lên?... Đồng bào! Đồng bào nên biết rằng bọn chúng ta là bạn bè, không phải thù địch, lẽ nào lại muốn hại nhau! Không kể cái cảm tình xung đột thế nào, quyết không nên cắt đứt cái dây bạn bè.
Lâm Khẳng tuy hết sức điều đình, nhưng không công hiệu gì. Đến tháng 4 năm ấy, tức là sau lúc Lâm Khẳng nhận chức một tháng, quân miền Nam đầu tiên đánh lấy pháo đài Tán Đích, mới khơi ra cái mối chiến tranh.
Cuộc chiến tranh Nam Bắc kéo dài đến 5 năm, trong lúc ấy miền Nam 11 châu,  số người 900 vạn; miền Bắc 23 châu, số người 2000 vạn, bên nhiều bên ít cái thế khác nhau xa, trong ý Lâm Khẳng tưởng chỉ nay mai sẽ dẹp yên ngay, nhưng vì miền Nam nhiều tướng giỏi, có khí hăng hái lắm, pháo đài Tán Đích cố giữ không đầy một tháng thì đã bị hãm ngay. Đến tháng 7, hai bên đánh một trận to ở Bạch Nhĩ Luân (Bull Run) quân bắc thua to, mấy nơi hình thế đều mất hết. Khi đó Lâm Khẳng xin với Quốc hội, thêm ngạch binh 50 vạn, binh phí 5 vạn đồng, để đối phó với quân địch, đó là cuộc Nam Bắc chiến tranh năm thứ nhất.
Năm 1862, Lâm Khẳng sai Cách Lan Thoát (Craut) đem quân đánh lấy được thành Đặc Ni Nhĩ (Donelson), viên đại tướng quân thủy lại lấy được Nữu Nga Liên Tư, thanh thế quân Bắc đã tiệm tiệm nổi lên, nhưng vì tướng Bắc là Mạnh Nhĩ Lan (Melellan) vây thành Lý Sĩ Mãn bị thua, rút về, rồi quân Nam lại thừa thế tiến vào. Tướng Nam là Lê (Lec) đánh đồn Phất Lặc Đắc Lực (Fredericksburg) chiếm giữ lấy. Lâm Khẳng sai tướng hai lần đến đánh, đều thất bại, mất hết 3 vạn quân. Đó là cuộc Nam Bắc chiến tranh năm thứ hai.
Trong 2 năm ấy, cuộc đánh nhau hai bên cũng có trận thua trận được, song kết quả thì quân Bắc có phần lớn hơn quân Nam. Lâm Khẳng lấy chức Đại tổng thống kiêm chức Đại nguyên suý lục quân hải quân, việc gì cũng ở trong tay, quân phí hàng ức hàng triệu, món nợ chất như núi cao, ngoài thì quân địch thừa thế lấn vào, trong thì đảng phản đối rình cơ nội ứng, trăm miệng đều đổ cho một mình Lâm Khẳng. Lại có bọn xướng cái thuyết hoà bình, bảo quản Bắc, nên khuất phục với quân Nam. Song Lâm Khẳng không chuyển động. Ông nói rằng: “Cái lẽ mà thắng thì cái sức cũng thắng, chúng ta chỉ biết làm cái nghĩa vụ trong cái lương tri dạy bảo ta, dầu sao cũng vậy”. Lời nói ấy đến năm sau, lúc đã phát bố cái lệnh “phóng nô”  rồi quả nhiên có hiệu nghiệm.
Một nước bờ cõi rộng lớn, tất không khỏi ý kiến lợi hại khác nhau, duy có hai bên đều lấy nước nhà làm đầu đề, thì việc tranh nhau không đến nỗi quá kích, cuộc pháp trị không đến phá hoại, rồi sau mới có thể lấy cái tinh thần điều hoà nhân nhượng mà giằng giữ cái dây liên lạc cho khỏi đứt đổ. Nếu tức khí nhau vì việc chính kiến mà muốn lấy võ lực giải quyết, thế thì việc cạnh tranh về chính trị hoá ra việc cạnh tranh về quyền lợi, cái mối giết nhau đã mở ra thì tấm thảm kịch càng giết càng dữ dội, không bao giờ mà không nát hại cả hai bên. Đau đớn thay lời ông Lâm Khẳng nói: “Đến khi hai bên đều hết hơi hết sức thì các ông đã phải nghỉ đánh ngay” Ôi! Đến lúc đó mới thôi đánh thì nước nhà còn thành ra nước nhà gì? Nhờ vì nước Mỹ độc lập, riêng một cõi trời Tân Đại Lục, không cõi nước nào chục rình sau lưng, cho nên tuy có cuộc nội chiến ấy mà rồi cũng khôi phục được nguyên khí, dần dần đến thịnh cường. Chứ nếu ở vào chỗ láng giềng nước mạnh bốn mặt rình dòm, thì có lẽ cuộc nội chiến chưa xong mà nước nhà đã thuộc vào tay ai rồi đó. Cái tiếng “Nam Bắc chiến tranh” nghe ra không tốt, xin nhà chính trị có chân tâm ái quốc trông gương vào đó, chớ để người sau lại thương xót đau đớn cho mình thay!
“Lẽ thắng thì sức cũng thắng”, lời nói ấy thêm được cái khí khái mạnh mẽ cho người chính đạo, thế nhưng người nào ở trong cuộc chính kiến xung đột, thì phải dẹp khí kiêu căng, nín hơi táo bạo, xét cái chân lý của bên kia để mở cái ý kiến chấp nhất của mình, như thế gọi rằng “Mình thắng mình thì mạnh” tức là cái độ lượng khoan dung của bậc hiền thần đời xưa, nếu cứ để cái lòng tự thị mình thì hơn, thì dầu người quân tử cũng làm cho nước nhà hư hại.


Ngày mồng một tháng giêng năm 1868 Lâm Khẳng phát ra cái mệnh lệnh giải phóng nô lệ, việc này là việc chuyển động rất lớn trong việc chiến tranh. Lệnh rằng:
“Tôi lấy chức quyền Đại nguyên suý trong khi nội loạn chưa định, trăm việc rối rít, cần phải xử trí việc chiến tranh, nay ra lệnh cho dân chúng biết rằng: Từ rày về sau, trong các châu những người bị nuôi làm nô lệ, đều được phục lại tự do; phải công nhận cái quyền tự do của bọn người ấy mà nhất luật bảo hộ”.
Khi đầu tiên Nam Bắc chiến tranh, thì đảng Cộng hoà miền Bắc đã xin giải phóng nô lệ, Lâm Khẳng vốn vì cái mục đích ấy mà ra đời, cũng rất biểu đồng tình, nhưng còn e sau lúc giải phóng nô lệ thì càng chọc tức người phương Nam thêm bền cái lòng kháng cự, vì thế mà nấn ná chưa làm. Đến bây giờ cuộc chiến tranh kéo dài mãi, mà quân Nam đem bọn nô lệ làm quân tiên phong, được thắng luôn mãi, Lâm Khẳng mới biết rằng việc giải phóng nô lệ không những là theo chủ nghĩa nhân đạo không nên để chầy, mà việc đó lại có thể nắm được tính mạng quân địch, tuyệt hẳn cái mối loạn Bắc Nam bèn lấy chức quyền Đại nguyên suý mà phát mệnh lệnh bắt thi hành, xem đó biết Lâm Khẳng cái lòng nhân ái thương người vẫn hơn người ta, nhưng cũng tính nghĩ chín chắn rồi sau mới làm, không dám khinh dị đem nước nhà mà đánh bạc, cái lòng nhẫn nại ấy lại càng ít có.
Lệnh phóng nô đã ban bố, được xoá sổ nô lệ tất cả 400 vạn người. Bọn nô lệ đi lính cho quân Nam, thấy vậy thì đều trở giáo đầu hàng, quân Nam từ đấy đại thất thế. Tháng 5 năm ấy, tướng Nam là Lê tuy có đánh thắng quân Bắc một trận ở Tản Tác La Duy, nhưng lại chết mất một tướng giỏi là Gia Khắc Tôn (Jackson). Đến tháng 7 tướng Bắc là Mai Đặc (Meade) thắng trận ở Yết Địa Bảo, quân Bắc thừa kế tiến mạnh, đến đâu được đó. Vua nước Pháp là Nã Phá Luân thứ ba (Napoléon III) khuyên hai bên giảng hoà, nhưng Lâm Khẳng không chịu, đó là cuộc Nam Bắc chiến tranh năm thứ 3.
Năm 1864, là năm thứ tư cuộc Nam Bắc chiến tranh, bấy giờ quân Nam thế đã cùng bách, mà Lâm Khẳng đã gần mãn hạn chức tổng thống. Đảng Dân chủ phương Bắc tôn viên đại tướng thua trận là Mạch Khắc Nhĩ Lan làm đầu, cuộc cạnh tranh lần bầu cử này rất dữ dội, song Lâm Khẳng lại được nối chức. Đến tháng 3 năm sau, đương lúc bốn bề tin báo thắng trận rầm rầm, Lâm Khẳng làm lễ nhận chức lần nữa, trong lời diễn thuyết, không khoe công mình, không nhiếc quân địch, thiệt là lời nói người người nhân đức. Lời rằng:
“Chúng ta nay nên bỏ hờn giận, mở lòng nhân, lấy điều kiên quyết bạo dạn mà bênh vực chính nghĩa. Đức thượng đế đã giao cho chúng ta cái trách nhiệm bênh vực chính nghĩa, thì chúng ta phải lo làm sao cho nổi cái trách nhiệm ấy, nào là nước nhà tổn hại, làm sao mà bồi bổ lại, nào là quân lính liều mình ở chiến trường, làm sao mà an ủi họ, nào là vợ goá con côi của những vong linh tử trận, làm sao mà cấp dưỡng họ, những công việc làm cho dân nước ta cùng với các nước trong thế giới chung hưởng cái phúc hoà bình lâu dài, đều là cái trách nhiệm của chúng ta phải cố sức làm”.
Lâm Khẳng nhận chức lần thứ hai tức là năm ấy cuộc Nam Bắc chiến tranh bình định. Trước khi ấy, Lâm Khẳng dùng Cách Lan Thoát làm Tổng tư lệnh, đánh thắng tướng Lê mấy trận, Lê lui giữ Lý Sỹ Mãn. Tướng Nam là ước Hàn Tư Đốn (Johnston) cùng bị tướng Bắc là Hạ Man (Sherman) đánh thắng luôn, phải rút về giữ Bĩ Đắc Bảo (Peterburg). Đến tháng 4 năm ấy, Cách Lan Thoát lấy được Lý Sỹ Mãn, Hạ Man cũng lấy được Bĩ Đắc Bảo. Lê và ước Hàn đều đầu hàng, rồi uân Bắc kéo đến Tá Trị á, bắt được Tổng thống Đại Vệ Tư, thế là xong cuộc Nam Bắc chiến tranh.
Khi đô thành Lý Sỹ Mãn đã hạ rồi, Lâm Khẳng nhân đi khao quân, xem các nơi chiến địa, bèn đến chỗ đô thành quân Nam để phủ du dân chúng, bọn mọi đen mấy vạn người già trẻ dắt nhau ra đón Lâm Khẳng, reo mừng cảm tạ. Lâm Khẳng trở về Hoa Thịnh Đốn cùng bà phu nhân đi xem kịch tại nhà hát Phục Đặc (Fordes Theates) để mừng trận. Một tên bạn hát là Bồi Sĩ (Booth) vốn là đảng quân Nam, rình lén bắn chết Lâm Khẳng, đó là ngày 14 tháng 4 năm 1865, hưởng thọ 65 tuổi.

Cái lệnh giải phóng nô lệ là một tấn văn chương rất có quan hệ, trong bài Tuyên ngôn độc lập hồi trước nói những nghĩa bình đẳng tự do, đến bây giờ mới là xong công việc. Lâm Khẳng lấy cái ý chung của quốc dân mà làm cho đạt cái chí nguyện của mình, thế mà hãy còn giữ gìn cẩn thận, không dám ra khỏi ngoài vòng pháp luật, một thì nói “chức quyền Đại nguyên suý” hai thì nói “cần phải xử trí việc chiến tranh”, ý nói việc này là việc tiện nghi trong buổi chiến tranh mà thôi, còn phải đợi cho Hội lập pháp ưng nhận nữa. Vậy cho nên việc cấm nuôi nô lệ cũng đến sau khi ước Hàn Sum (Johnson) nối chức, đã cải chính hiến pháp rồi, việc ấy mới thành ra pháp điển. Phàm người làm đầu nước lập hiến,  nên lấy Lâm Khẳng làm khuôn phép.
Ông Lão Tử có nói: “Đem binh mà đối đãi nhau, bên nào hay thương xót thì hẳn thắng”. Xem ông Lâm Khẳng đối với cuộc Nam Bắc chiến tranh, câu nào cũng ra ý thương xót, vậy cho nên mới được toàn thắng. Nhưng hãy thử xem lời diễn thuyết lúc nhận chức Tổng thống lần thứ hai, thì tuy đã được thắng rồi mà vẫn còn lòng thương xót, so với những người đánh được quân địch bắt quân tù về tế cáo tổ miếu, như thế thiệt là tham công mừng hoạ, bên nhân bên dữ, khác nhau biết bao!
Cái đức nghiệp của Lâm Khẳng và cái lịch sử tái tạo ra nước Mỹ thì đã đủ cái đại lược trong mấy bài trước rồi. Song những lời hay nết tốt của ông rải rác trong truyện ký còn nhiều, nay xin đặt ra để cuối cùng sách này cho bọn thiếu niên trông gương.
Lâm Khẳng không hút thuốc, không uống rượu, lúc thiếu niên có làm bài luận cấm rượu, đương thời người ta đã cho là danh ngôn. Lâm Khẳng hay tiết kiệm, không hay chuộng xa hoa, tuy làm Đại tổng thống mà đồ mặc không khác gì dân thường, đi ra không khi nào đem theo lính hộ vệ.
Lâm Khẳng có lòng vui thích tự nhiên, làm việc vẫn thường thong dong, không khi nào vội vã. Đương lúc Nam Bắc chiến tranh, muôn việc dồn dập, người thường không thể kham được, thế mà Lâm Khẳng vẫn nhàn hạ chỉnh tề, dầu đến việc công ngày thường cũng nhiều việc ông tự làm lấy.
Lâm Khẳng ham xem tiểu thuyết, tuy đang những lúc việc quân rối rít, mà trên cái bàn cứ thường có cuốn sách chuyện lạ chuyện vui để xem cho tiêu khiển.
Lâm Khẳng giao thiệp xã hội rất thạo, diễn thuyết rất hay, bàn luận thường hay pha khôi hài, lúc diễn thuyết cũng thế. Song đối với người thì chỉ lấy thành thực, những mưu ngầm chước dối của nhà chính trị hay làm là ông ghét lắm.
Lâm Khẳng yêu chân lý, hay quả quyết, nhưng vẫn hay đẹp ý riêng, theo điều phải, mỗi khi cùng bạn bè bàn luận thì thường cứ nhận lỗi trách mình. Ông nói rằng: “Tôi không biết sắp đặt mọi việc cho đáng sự thực, chỉ hay nhận rõ cái chân tướng của sự thực mà phục tòng ngay”.
Lâm Khẳng hay thương xót người, thiệt là được về phần thiên tính hơn người khác. Trong quân thường có lính trốn bị bắt, ông cũng tha cho không làm tội. Có một hôm bắt được một tên lính nọ, quan đại tướng là Bá Thoát Lao (Butler) nhất định bắt tội. Lâm Khẳng lấy lời nói pha trò mà đáp rằng: “Trời đã sinh nó ra hai cái chân nhát hèn như thế, thì nó tất phải đem hai cái chân ấy mà đi trốn”, rồi ông tha nó mà đuổi đi.
Lâm Khẳng giữ lời Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ làm điều tín ngưỡng về chính trị, đối với nghĩa nhân quyền bình đẳng càng dốc lòng tin. Ông thường bàn cái vấn đề mọi đen, có nói rằng: “Bọn mọi đen sắc da vẫn khác người mình, chỗ thua kém người mình cũng còn nhiều, song nói về cái quyền lợi đem bát cơm làm ra mà đổ vào miệng, thì da trắng da đen có khác đâu”.
Lâm Khẳng hay tôn trọng dân ý, trong chủ nghĩa tự trị, ông có nói rằng: “Nhân dân là ông chủ tể Quốc hội và Pháp viện, cho nên hiến pháp mà có chỗ nghi ngại thì nên theo dân ý mà định, vì dân ý có thể phòng giữ được nhà chính trị phá hoại hiến pháp, chứ không đến nỗi tự phá hoại hiến pháp bao giờ”.
Lâm Khẳng ứng phó việc ngoại giao cũng lanh lảu luyện thuộc lắm. Lúc quân Nam sai Mã Sum (Mason) và Sử Lập Đặc (Slidell) sang châu Âu  cầu cứu nước Anh nước Pháp làm hậu viện, bọn ấy đã đi chiếc tàu nước Anh ra khỏi phần bể nước Mỹ rồi, bị tướng Bắc là Uy Nhĩ Khắc (Wilkes) đón bắt tàu ấy lại. Nước Anh đòi bắt giao người phạm, và bắt nước Mỹ phải xin lỗi. Dân Mỹ nghe việc này đều tức giận lắm. Nhưng Lâm Khẳng cứ chịu nhịn nhượng theo lời người Anh, nhờ thế mà được vô sự. Ông nói rằng: “Trong một thời kỳ, chỉ có thể dong được một cuộc chiến tranh mà thôi”, các nhà ngoại giao đều phục lời ấy là danh ngôn.
Có nhà chép sử phê bình ông Hoa Thịnh Đốn rằng: Hoa Thịnh Đốn là người lương thiện mà rất vĩ đại, lại là người vĩ đại mà rất lương thiện, câu đó nếu đem phê bình ông Lâm Khẳng cũng không phải không đáng.
Đọc truyện Lâm Khẳng, nên biết rằng cái cảnh ngộ không làm khốn được người, chỉ tại người biết lập chí.
Đọc truyện Lâm Khẳng, nên biết rằng chỗ nào cũng tỏ ra cái khổ phết nhà chính trị nước dân chủ.
Đọc truyện Lâm Khẳng nên biết rằng cái công nghiệp của Lâm Khẳng đều bởi trong đức tính mà ra, chúng ta mà hy vọng cái công nghiệp của Lâm Khẳng thì trước phải dỡng thành đức tính của Lâm Khẳng.

Đông Tây vĩ nhân, quyển 1.
Giác Quần Thư Xã, Hà Nội, 1929

 



[1] Thomas Lincoln
[2] Nancy Hanks Lincoln
[3] Chủ nhân: nhân vật chính.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét